Chính sách đối ngoại chủ động, tích cực của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa để chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả dân tộc Việt Nam đã đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam với quyết tâm “chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn, để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà.. Để thực hiện mục tiêu, Việt Nam phát huy sức mạnh của cả dân tộc, xây dựng chính sách đối ngoại đúng đắn,triển khai hiệu quả, thể hiện sự chủ động, tích cực trong xây dựng mối quan hệ với các nước xã hội nghĩa nhằm tạo thế và lực, góp phần đem đến thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, bảo vệ độc lập dân tộc.
Từ khóa: Việt Nam, chính sách, đối ngoại, xã hội chủ nghĩa, chống Mỹ
Việc triển khai đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam, để tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩagiai đoạn 1954 - 1975 được chia thành hai giai đoạn nhỏ là 1954 - 1964 và 1964 - 1975. Điều này căn cứ vào tình hình thế giới và thực tế của cách mạng Việt Nam, về góc độ quy mô và tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh Việt Nam, giai đoạn 1954 - 1964 Mỹ đã can thiệp vào Việt Nam nhưng vẫn trên danh nghĩa viện trợ, giúp đỡ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Giai đoạn 1964 - 1975 các vấn đề liên quan đến chiến tranh Việt Nam trở nên phức tạp hơn nhiều, Mỹ dựng lên "Sự kiện vịnh Bắc Bộ", trực tiếp đưa quân Mỹ và quân đồng minh xâm lược Việt Nam. Về phía Liên Xô trong giai đoạn này, thấy được vị trí địa chính trị quan trọng của Việt Nam đã tích cực ủng hộ, giúp đỡ cuộc đấu tranh của Việt Nam. Như vậy, trong giai đoạn 1964 - 1975, tính chất cuộc chiến tranh Việt Nam đã được quốc tế hóa sâu sắc hơn, quy mô và tính chất ác liệt hơn, chiến tranh đã lan rộng ra khắp cả nước Việt Nam và còn mở rộng sang Lào và Campuchia. Do đó, Việt Nam phải lựa chọn cho mình việc triển khai chính sách đối ngoại phù hợp trong từng giai đoạn để phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, tranh thủ sự ủng hộ, tập hợp lực lượng tạo thêm sức mạnhđể góp phần chiến thắng đế quốc Mỹ.
* Giai đoạn 1954 - 1964
Từ năm 1954, trong thế phải đối đầu với đế quốc Mỹ hùng mạnh, đối ngoại của Việt Nam phải thực hiện mục tiêu tăng cường tập hợp lực lượng, tranh thủ sự ủng hộ của các nước dân chủ, các tổ chức tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Trong đó, việc đẩy mạnh mối quan hệ của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa trở thành mục tiêu lớn, giúp Việt Nam có thêm sự ủng hộ, giúp đỡ cần thiết trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để bảo vệ độc lập dân tộc. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng Lao động Việt Nam khẳng định quyết tâm: "Tiếp tục phát triển và củng cố tình hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và tất cả các nước dân chủ khác".Thực tế cho thấy, từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào năm 1950, Liên Xô, Trung Quốc đã có những giúp đỡ tích cực, tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam để tiến lên giành thắng lợi trước thực dân Pháp.Trên cơ sở hiểu biết, tin cậy, dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng quan điểm trên nhiều vấn đề quốc tế, giúp Việt Nam có điều kiện thuận lợi trong việc tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa. Ngay sau Hội nghị Giơnevơ, trong lời kêu gọi toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, phải tăng cường củng cố hơn nữa tình hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Nhân dân Việt Nam phải thể hiện lòng biết ơn và thắt chặt tình đoàn kết với nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa. Với việc xác định mục tiêu đúng đắn và triển khai hiệu quả, Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa giành cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sự ủng hộ tích cực. Các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt đặt đại sứ hoặc cơ quan đại diện ngoại giao, đồng thời có những giúp đỡ tích cực cho miền Bắc trong việc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam. Năm 1955, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa II, Đảng Lao động Việt Nam khẳng định, phương châm đối ngoại đẩy mạnh đoàn kết hữu nghị với Trung Quốc, Liên Xô, các nước anh em đi vào chiều sâu. Đồng thời, phối hợp nhịp nhàng với các nước xã hội chủ nghĩa trong đấu tranh ngoại giao, các hoạt động quốc tế và chuẩn bị cử đại sứ, đại biện ngoại giao đến các nước này để tăng cường công tác đối ngoại.
Để tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, củng cố đoàn kết, tháng 7/1955 Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến thăm các nước xã hội chủ nghĩa. Qua chuyến đi, Việt Nam đã giải thích cho các nước bạn hiểu rõ hơn mục tiêu đấu tranh dân chủ, hòa bình trong thi hành Hiệp định Giơnevơ. Khẳng định,Việt Nam là một thành viên tích cực trong khối xã hội chủ nghĩa, quyết tâm đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, vì sự tiến bộ của nhân loại. Chuyến đi thể hiện sự triển khai chính sách đối ngoại đúng đắn trong việc tập hợp lực lượng ủng hộ, gặt hái được nhiều thành công khi Việt Nam và Liên Xô đã ký Tuyên bố chung, bên cạnh đó Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa cam kết ủng hộ những thứ cần thiết cho Việt Nam. Tiếp đó, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham dự Hội nghị 64 đảng cộng sản và công nhân quốc tế (11/1957), đặc biệt tại Hội nghị 81 đảng cộng sản và công nhân quốc tế (11/1960) tại Matxcơva, phát biểu tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:"Cuộc đấu tranh để bảo vệ và củng cố hòa bình thế giới là một cuộc đấu tranh giai cấp chống chủ nghĩa đế quốc hiếu chiến và quyết định thắng lợi trong cuộc đấu tranh ấy chủ yếu là do sự đoàn kết phấn đấu của quần chúng nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới". Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn tranh thủ các diễn đàn đa phương, song phương, lên án mạnh mẽ âm mưu của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ, kêu gọi cộng đồng quốc tế ủng hộ một Việt Nam hòa bình, thống nhất. Việc tranh thủ các hội nghị có nhiều đảng cộng sản và công nhân quốc tế để đẩy mạnh tuyên truyền, giải thích về mục đích đấu tranh của Đảng Lao động Việt Nam và nhân dân Việt Nam là bước triển khai đối ngoại khôn ngoan và mang lại nhiều kết quả tích cực trong sự ủng hộ cho cách mạng Việt Nam.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 mở rộng khóa II khẳng định: "Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á". Trên cơ sở đánh giá tình hình trong nước và thế giới trong Chiến tranh lạnh, Đảng Lao động Việt Nam xác định, đế quốc Mỹ là kẻ thù chính và ngày càng can thiệp sâu vào tình hình Việt Nam. Do đó, việc xây dựng mối quan hệ vững chắc với các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có hai nước lớn là Liên Xô và Trung Quốc, giúp Đảng Lao động Việt Nam có cơ sở vững chắc khi đánh giá tình hình chung và đưa ra Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15(1959). Nghị quyết thể hiện quyết tâm chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang tiến công, thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.Có thể khẳng định, trước khi phong trào Đồng khởi nổ ra ở miền Nam (1960), Đảng Lao động Việt Nam và Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liên tiếp cử nhiều đoàn đại biểu cấp cao sang thăm Liên Xô, Trung Quốc và một số nước xã hội chủ nghĩa để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ đoàn kết và tranh thủ sự giúp đỡ. Qua đó khẳng định, Việt Nam là một thành viên của khối xã hội chủ nghĩa đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới. Sự chủ động, tích cực trong đối ngoại của Việt Nam đã tranh thủ sự ủng hộ nhiều hơn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhanh chóng thúc đẩy để biến những cam kết giúp đỡ của các nước bạn sớm thành hiện thực, đáp ứng kịp thời những yêu cầu cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam. Liên Xô, Trung Quốc tuyên bố ủng hộ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đấu tranh đòi Mỹ vàchính quyền Ngô Đình Diệm thi hành Hiệp định Giơnevơ và lên án hành động can thiệp của Mỹ vào Việt Nam.
Thành quả của chính sách đối ngoại đúng đắn, linh hoạt, chủ động trong triển nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa trong 10 năm đầu tiến hành cuộc đấu tranh chống Mỹ (1954 - 1964) đã gặt hái được nhiều thành quả tích cực, nhận được sự ủng hộ ngày càng lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, Việt Nam đã ký với Liên Xô nhiều hiệp định hợp tác trên nhiều lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thương mại, vận tải, khoa học - kĩ thuật. Liên Xô cam kết giành cho Việt Nam những gói viện trợ không hoàn lại lớn, "Năm 1955 đến năm 1964, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam số tiền vào khoảng 320 triệu rúp, trong đó 94,5 triệu rúp cho vay không hoàn lại, số còn lại cho vay với điều kiện ưu đãi", giúp Việt Nam khôi phục kinh tế, chống thiên tai, dịch bệnh, ổn định đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, Liên Xô còn giúp Việt Nam huấn luyện tác chiến và sử dụng vũ khí hiện đại cho quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 8/7/1964 phát biểu tại cuộc chiêu đãi các sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học quân sự Liên Xô, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng N.S. Khrushchev tuyên bố: "Nhân dân miền Nam Việt Nam đang tiến hành một cuộc đấu tranh anh dũng vì hòa bình và độc lập, chúng ta ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam trong cuộc đấu tranh này".Có thể khẳng định, trong giai đoạn này, sự ưu tiên của Liên Xô là tập trung củng cố vững chắc vị trí ảnh hưởng của mình ở châu Âu. Tuy nhiên, những bước đi ngoại giao chủ động, tích cực của Việt Nam đã có tác động lớn đến quan điểm đối ngoại Liên Xô khi quyết định ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Trong giai đoạn 1954 - 1964, Trung Quốc đã giành cho Việt Nam những gói viện trợ không hoàn lại lớn, "Tính trong 10 năm 1954 - 1964, viện trợ kinh tế của Trung Quốc cho Việt Nam là 1,1 triệu nhân dân tệ". Ngoài ra, Trung Quốc còn ký với Việt Nam nhiều hiệp định giúp xây dựng công trình công nghiệp, giúp đỡ về kĩ thuật, cung cấp hàng hóa, mậu dịch dài hạn, cử các chuyên gia sang giúp đỡ và đào tạo nhân lực cho Việt Nam. Trung Quốc, đã có những giúp đỡ tích cực cho Việt Nam cả về vật chất lẫn tinh thần, lên án hết sức mạnh mẽ việc Mỹ dựng lên "sự kiện Vịnh Bắc bộ", lấy cớ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Đồng thời, Trung Quốc tổ chức các cuộc biểu tình lớn, lên án hành động đánh phá miền Bắc của Mỹ và tuyên bố sẵn sàng đưa quân sang miền Bắc Việt Nam để chống Mỹ. Có thể khẳng định, Việt Nam đã triển khai chính sách đối ngoại hiệu quả, dựa trên tinh thần đồng chí, láng giềng, phát huy những giá trị quan hệ mà Trung Quốc giành cho Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Mặt khác, qua nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Trung Quốc trong đối ngoại, Việt Nam nhận thấy, mục tiêu của Trung Quốc luôn muốn thể hiện vai trò nước lớn, phát huy tầm ảnh hưởng ở châu Á. Trên cơ sở đánh giá đó, Việt Nam đã xây dựng chiến lược, sách lược ngoại giao phù hợp trong quan hệ nhằm tranh thủ tối đa sự ủng hộ của Trung Quốc.
Bên cạnh sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác (Nam Tư, Tiệp Khắc, Hunggary, Rumani...) cũng có nhiều hành động thiết thực đã giúp đỡ Việt Nam. Các nước cử các đoàn đại biểu thăm Việt Nam nhằm khẳng định quyết tâm ủng hộ lập trường của Việt Nam, đồng thời ký với Việt Nam các văn bản thực hiện các chương trình hợp tác thương mại, khoa học - kĩ thuật, văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân lực và cử chuyên gia trực tiếp giúp đỡ Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, việc triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam đã đi đúng hướng, phát huy hiệu quả tích cực, nhận được sự đồng cảm, tin tưởng và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Có thể khẳng định, giai đoạn 1954 - 1964 đối ngoại của Việt Nam vừa định hình nội dung triển khai đấu tranh, vừa thăm dò thái độ các nước, đặc biệt các nước lớn. Với đường lối đối ngoại đúng đắn, tích cực, chủ động, sáng tạo trong triển khai đối ngoại, Việt Nam đã giúp các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có hai nước lớn là Liên Xô, Trung Quốc thấy được sự chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống lại sự can thiệp và chống phá của đế quốc Mỹ. Việt Nam khẳng định: "Vấn đề thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước ta trước hết là vấn đề đấu tranh giữa dân tộc ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai, đồng thời cũng là vấn đề đấu tranh giữa phe xã hội chủ nghĩa và phe đế quốc chủ nghĩa". Từ đó, cần phải tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa để tạo thêm sức mạnh cho Việt Nam trong đấu tranh chống Mỹ. Thực tế, trong giai đoạn chống Mỹ, các nước xã hội chủ nghĩa đã có những giúp đỡ tích cực cho Việt Nam trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở miền Bắc, khắc phục khó khăn do chiến tranh, thiên tai và từng bước ổn định đời sống nhân dân. Đồng thời, giúp miền Bắc những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất, kĩ thuật chochủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc về quân sự, giúp Việt Nam có được những trang thiết bị chiến tranh hiện đại, nâng cao hiệu quả hoạt động tác chiến, giúp quân đội nhân dân Việt Nam nhanh chóng tiến lên chính quy, hiện đại, làm chủ khí tài quân sự để sẵn sàng đương đầu với đội quân được trang bị hiện đại của Mỹ. Rõ ràng, việc triển khai chính sách đối ngoại đúng đắn trong thắt chặt quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa giai đoạn 1954 - 1964 đã đặt cơ sở, nền móng, tạo điều kiện thuận lợi căn bản cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sau này.
* Giai đoạn 1964 - 1975
Giai đoạn 1964 - 1975, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến hết sức khó lường, trong đó có nhiều vấn đề gây khó khăn cho Việt Nam trong việc triển khai chính sách đối ngoại. Liên Xô và Mỹ đối đầu quyết liệt với nhau dựa trên mục tiêu riêng của mỗi nước và sự khác biệt về ý thức hệ, tuy nhiên giai đoạn này, hai nước đã có những động thái đàm phán, trao đổi, hợp tác vì quyền lợi của mỗi nước. Đầu những năm 70, hai bên tăng cường trao đổi đoàn, thảo luận rồi đi đến ký kết một số hiệp định về hạn chế vũ khí tiến công chiến lược, một số hiệp định về hợp tác khoa học - kĩ thuật. Trong khi đó, quan hệ Mỹ - Trung từ đối đầu căng thẳng trong thập niên 50 của thế kỷ XX đã có những dấu hiệu cải thiện rõ rệt, dần khép lại những bất đồng và tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa hai nước.Giai đoạn này cũng chứng kiến, mối quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện những rạn nứt lớn, đặc biệt là mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân sâu xa vẫn là thái độ không tin tưởng, nghi ngại lẫn nhau giữa lãnh đạo hai nước, sự ngấm ngầm tranh giành vị trí lãnh đạo trong thế giới các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.
Trong khi mối quan hệ giữa các nước lớn diễn tiến thay đổi, gây nhiều khó khăn cho Việt Nam, trước tình hình đó, quan điểm nhất quán của Việt Nam trong đối ngoại là: "Giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời phải cố gắng tranh thủ sự giúp đỡ của các nước anh em. Phải độc lập tự chủ mới thắng được, nhưng phải biết đoàn kết với anh em, đừng để mình bị cô lập". Thực tế, mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc bất lợi cho mục tiêu tập hợp lực lượng, gây khó khăn, cản trở việc triển khai nội dung đối ngoại để bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam. Do đó, giải quyết hài hòa mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc là nhiệm vụ quan trọng trong triển khai chính sách đối ngoại, đòi hỏi Việt Nam phải vận dụng khéo léo nguyên tắc "dĩ bất biến ứng vạn biến", "ngoại giao tâm công" để hoàn thành nhiệm vụ. Việt Nam khẳng định lập trường: "Kiên quyết bảo vệ sự đoàn kết giữa Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc, với các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa", không để Việt Nam bị cuốn vào cuộc tranh chấp giữa Liên Xô - Trung Quốc và mâu thuẫn giữa một số nước xã hội chủ nghĩa.Chính đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, khôn khéo đã giúp Việt Nam cân bằng được mối quan hệ với Liên Xô, Trung Quốc. Mặc dù bất đồng quan điểm và mâu thuẫn với nhau nhưng Liên Xô, Trung Quốc vẫn tích cực ủng hộ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Sự giúp đỡ của Liên Xô giành cho Việt Nam giai đoạn 1964 - 1975 là hết sức to lớn trên tất cả nhiều mặt, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự, giúp quân đội Việt Nam có đủ trình độ tác chiến và vũ khí hiện đại để đương đầu với Mỹ. Sự kiện đánh dấu bước phát triển mạnh trong quan hệ Liên Xô - Việt Nam là việc Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, A.N.Cosygin thăm Việt Nam (2/1965). Chuyến thăm diễn ra trong hoàn cảnh Mỹ đẩy mạnh ném bom phá hoại miền Bắc, điều đó thực sự làm cho Liên Xô tức giận, bởi xét yếu tố quan hệ quốc tế giữa các nước lớn, hành động của Mỹ là không tôn trọng Liên Xô, càng củng cố thêm quyết tâm giúp đỡ Việt Nam của Liên Xô. Trong chuyến thăm, hai bên ra Tuyên bố chung, đồng thời ký Hiệp ước Hỗ trợ kinh tế và quân sự Việt - Xô, Liên Xô tuyên bố sẵn sàng ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước. Sau chuyến đi, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam hệ thống phòng không hiện đại đủ sức đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ, đồng thời ra tuyên bố lên án Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc Việt Nam. Chuyến thăm của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô, A.N.Cosygin đến Việt Nam là dấu mốc quan trọng đánh dấu quan hệ Liên Xô với Việt Nam được thắt chặt, đi vào chiều sâu, cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ nhận được sự giúp đỡ và viện trợ nhiều hơn từ Liên Xô. Để thực hiện lời hứa của mình, ngay trong tháng 3/1965, Liên Xô huy động 20 tàu vận tải lớn chở hàng ngàn tấn hàng hóa cần thiết chi viện cho Việt Nam.Đáp lại sự giúp đỡ của Liên Xô, phái đoàn Việt Nam do Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam, Lê Duẩn dẫn đầu đã sang thăm Liên Xô (4/1965), khẳng định thắt chặt tình đoàn kết của hai nước, cám ơn sự giúp đỡ tận tình và tuyên bố ủng hộ đường lối đối ngoại của Liên Xô. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác giữa hai nước, trong tháng 7/1965 Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị thăm Liên Xô, hội đàm với Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Novychev, đưa đến quyết định: "Hai bên đã ký kết Hiệp định về Liên Xô viện trợ cho Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân và củng cố khả năng quốc phòng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa căn cứ vào yêu cầu của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược". Sự chủ động, tích cực đẩy mạnh xây dựng mối quan hệ gắn bó với Liên Xô của Việt Nam đã thu được nhiều kết quả rất khả quan. Để thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, tháng 5/1966 Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, L.I.Brezhnev tuyên bố: "Liên Xô đang và sẽ kiên quyết ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của Việt Nam. Đó là mệnh lệnh lương tâm của những người cộng sản và công dân nước xã hội chủ nghĩa chúng ta, đó là ý chí của toàn thể nhân dân Xô viết", đây là lời tuyên bố công khai lên tiếng ủng hộ Việt Nam mạnh mẽ của nhà lãnh đạo cao nhất của Liên Xô.Thực tế cho thấy,giai đoạn 1964- 1975, Liên Xô - Việt Nam ký nhiều hiệp định quan trọng, Hiệp định viện trợ kinh tế bổ sung không hoàn lại và Hiệp định hỗ trợ kĩ thuật cho Việt Nam (1965); Hiệp định hợp tác hàng không và thông tin liên lạc (1969); Hiệp định cung cấp bổ sung viện trợ kinh tế, quân sự (1970); Hiệp định hợp tác kinh tế, kĩ thuật và trao đổi hàng hóa (1973), Hiệp định hợp tác văn hóa và khoa học (1974)... Các hiệp định này là cơ sở pháp lý, khẳng định sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn mà Liên Xô giành cho Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, điều đó cũng thể hiện sự hiệu quả trong triển khai đối ngoại của Việt Nam trong xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với Liên Xô. Không chỉ dành cho Việt Nam những khoản viện trợ và giúp đỡ to lớn, Liên Xô còn lên tiếng ủng hộ Việt Nam thông qua các diễn đàn quốc tế, trao đổi, hội thảo, tiếp xúc báo chí và tổ chức nhiều cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam.Liên Xô công nhận chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1973) là đại diện hợp pháp của nhân dân miền Nam. Sự kiện này, tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân miền Nam trong cuộc đấu tranh ngoại giao để góp thêm công sức vào thắng lợi chung của cả nước. Đặc biệt, trong giai đoạn quan trọng quyết định sự thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ, theo thống kê của Việt Nam: "Từ năm 1972 đến năm 1975, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam 754 triệu Rúp"sự giúp đỡ này là hết sức thiết thực, tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam đi đến giành thắng lợi cuối cùng.
Sự giúp đỡ của Trung Quốccho Việt Nam trong suốt thờikỳ chống Mỹ là rất to lớn, với số hàng hóa viện trợ lên đến 1.594.724 tấn, trong đó chủ yếu viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam, chỉ tính riêng "từ năm 1972 đến năm 1975 Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam 325 triệu nhân dân tệ".Ngoài ra, Trung Quốc còn tổ chức nhiều cuộc mít tinh lớn, thu hút hàng triệu người tham gia lên án Mỹ, ủng hộ Việt Nam. Trung Quốc còn cử hàng ngàn chuyên gia sang giúp Việt Nam xây dựng các công trình quân sự, dân sự, giúp Việt Nam đào tạo nhiều học viên có chuyên môn, kĩ thuật để trở về xây dựng đất nước, phục vụ kháng chiến.
Ngoài việc tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, việc triển khai đúng đắn đường lối đối ngoại của Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ không nhỏ của các nước xã hội chủ nghĩa khác.Để thúc đẩy sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, trong thời gian từ 11/6 đến 16/7/1965 đoàn đại biểu kinh tếchính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị dẫn đầu đã lần lượt đi thăm và hội đàm với chính phủ các nước Ba Lan, Cộng hòa Dân chủ Đức, Bungary, Tiệp Khắc, Hunggary, Triều Tiên. Mục đích của chuyến đi, nhằm tăng cường hơn nữa sự hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nước anh em về việc giúp đỡ phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, tăng thêm thực lực trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.Với những bước đi ngoại giao chủ động, tích cực, Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các nước anh em. Trong đó, ở Hunggary diễn ra phong trào hiến máu giúp đỡ Việt Nam, kêu gọi quyên góp ủng hộ Việt Nam, tính từ năm 1965 đến 1971 đã quyên góp được 15 triệu Rúp ủng hộ Việt Nam. Có hàng trăm cuộc mít tinh, tuần hành ủng hộ Việt Nam diễn ra ở Bungary, trong khi ở Tiệp Khắc, công nhân nhiều xí nghiệp trong cả nước phát động phong trào trích 1% đến 2% lương để ủng hộ Việt Nam. Tại Cuba, thành lập Ủy ban Điều tra tội ác chiến tranh của Mỹ, thành lập các ủy ban đoàn kết với Việt Nam, tổ chức nhiều hoạt động thiết thực ủng hộ Việt Nam, với tinh thần "vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến cả máu". Để ủng hộ Việt Nam, Triều Tiên tuyên bố:"Sẽ ủng hộ vật lực dưới mọi hình thức, kể cả vũ khí cho nhân dân Việt Nam đang chiến đấu và sẽ gửi người tình nguyện vào bất kỳ lúc nào theo đề nghị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam".
Có thể khẳng định, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Anbani, Ba Lan, Hunggary, Rumani, Bungary, Mông Cổ, Cuba đều giành cho Việt Nam sự ủng hộ nhiệt tình cả về vật chất lẫn tinh thần. Theo tổng kết của Việt Nam: "Từ năm 1955 đến năm 1975 viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em dành cho Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là 2.362.494 tấn (1955 - 1960: 49.583 tấn; 1961 - 1964: 70.205 tấn; 1965 - 1968: 517.393 tấn; 1969 - 1972: 1.000.796 tấn; 1973 - 1975: 724.512 tấn)".
* Kết luận
Việc xây dựng nội dung chính sách đối ngoại đúng đắn, triển khai có hiệu quả đã giúp Việt Nam nhận được sự ủng hộ hết sức tích cực của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi. Để đạt được sự thành công đó, chiến lược, chiến thuật đối ngoại của Việt Nam trước mâu thuẫn Xô - Trung trở thành một bài học lớn trong lịch sử đối ngoại của Việt Nam. Mâu thuẫn Xô - Trung, buộc Việt Nam phải thực hiện chính sách đối ngoại cân bằng mối quan hệ với cả hai nước, khéo léo giải quyết các vấn đề liên quan đến hai nước. Nhân nhượng có nguyên tắc, tránh đứng hẳn về một nước để chống lại nước kia, không có lợi cho mục tiêu tập hợp lực lượng của Việt Nam.
Với mục tiêu đối ngoại đối đúng đắn, tư tưởng chỉ đạo sắc bén, Việt Nam giữ vững những nguyên tắc căn bản trong đường lối đối ngoại, xác định rõ chiến lược đối ngoại và nhiệm vụ đối ngoại trong từng giai đoạn cụ thể và đề ra phương hướng đối ngoại theo nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “ngoại giao tâm công”. Đảng Lao động Việt Nam và Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên tinh thần kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, tích cực, chủ động mở rộng quan hệ quốc tế đã gặt hái được những thành công lớn. Qua đó, tranh thủ được sự giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, tiếp thêm sức mạnh, nâng cao thế và lực cho Việt Nam trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ của hậu phương lớn, giúp cho miền Nam có thêm sức mạnh để đánh thắng các loại hình chiến tranh xâm lược của Mỹ. Lịch sử đã chứng minh, sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam là vô cùng quý giá, là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên những thắng lợi vĩ đại của Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, thống nhất đất nước và bảo vệ độc lập dân tộc.
Trong tình hình hiện nay, một trật tự thế giới mới đang định hình, mối quan hệ quốc tế chồng chéo, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trở nên phức tạp, trong đó, có việc tranh chấp ở biển Đông liên quan đến quyền lợi của Việt Nam. Những bài học trong chủ động, tích cực, khéo léo xây dựng mối quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa để tập hợp lực lượng vẫn còn nguyên giá trị và mang tính thời sự sâu sắc. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII đã quán triệt: “Nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, bình thường hóa, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Thực hiện mục tiêu đó, Việt Nam đã đẩy mạnh quan hệ với nhiều tổ chức, quốc gia, đẩy mạnh hoạt động song phương, đa phương, từng bước xây dựng lòng tin, nâng tầm mối quan hệ đi vào chiều sâu, thực chất, tôn trọng lẫn nhau.Trên tinh thần đó, Việt Nam chủ động, tích cực tập hợp lực lượng, nhân nhượng có nguyên tắc, khôn khéo, kiên trì giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp thương lượng hòa bình. Tin chắc rằng, với những bài học thành công trong xây dựng quan hệ tốt đẹp với các nước xã hội chủ nghĩa (1954 - 1975), Việt Nam sẽ tiếp tục xây dựng đường lối đối ngoại tích cực, triển khai có hiệu quả, vận dụng sáng tạo những bài học đối ngoại trong lịch sử vào thực tế đối ngoạiĐảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân đểgóp phần thúc đẩy đất nước phát triển bền vững, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổthiêng liêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 thắng lợi và bài học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 14, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 21, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Mai Hoa (2013), Các nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Thông tấn xã Giải phóng (1964), Bản tin hàng ngày, (555), ngày 14/7/1964.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 14, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.305
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 21, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.1037
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.66
Nguyễn Thị Mai Hoa (2013), Các nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.136
Thông tấn xã Giải phóng (1964),Bản tin hàng ngày, (555), ngày 14/7/1964.
Nguyễn Thị Mai Hoa (2013), Các nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.149
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.43
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.64
Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 thắng lợi và bài học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.587
Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 thắng lợi và bài học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.587
Thông tấn xã Giải phóng (1965), Bản tin hàng ngày, (845), ngày 4/5/1965
Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 thắng lợi và bài học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.587
TS. Đinh Đức Duy
Phó Trưởng khoa Xây dựng Đảng