Những điểm mới cơ bản trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Quốc hội có hiệu lực vào ngày 01/01/2021.
Luật Tổ chức Quốc hội được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 8 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước ta. Sau hơn 03 năm thi hành, Luật Tổ chức Quốc hội đã mang lại những kết quả tích cực, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội trên các lĩnh vực lập pháp, giám sát, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thi hành Luật thời gian qua cũng đã bộc lộ những vướng mắc, bất cập, như: quy định tiêu chuẩn về quốc tịch đối với đại biểu Quốc hội còn chưa thật cụ thể; các nội dung liên quan đến công tác quản lý cán bộ đối với đại biểu Quốc hội hiện được quy định rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, chưa rõ trách nhiệm phân công, phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ ở Trung ương và địa phương theo phạm vi phân cấp…;
Trước yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, khắc phục những hạn chế, bất cập trong việc thi hành Luật tổ chức Quốc hội trong thời gian qua. Ngày 19/6/2020, với đa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, Quốc hội khóa XIV thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội, có hiệu lực vào ngày thi hành vào ngày 01/01/2021.
Theo đó, Luật đã sửa đổi, bổ sung 20 trong tổng số 102 điều của Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành, trong đó tập trung vào những nội dung cơ bản được đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm, bao gồm:
1. Về đại biểu Quốc hội:
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội cơ bản giữ các quy định về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội như Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành. Về tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, để bảo đảm tính chặt chẽ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tránh xảy ra vi phạm trong quá trình bầu cử đại biểu Quốc hội như nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, Luật đã bổ sung một khoản quy định về tiêu chuẩn quốc tịch đối với đại biểu Quốc hội. Theo đó, ngoài những tiêu chuẩn chung, đại biểu Quốc hội có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam (khoản 1a Điều 22).
2. Về tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách:
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội đã tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ít nhất là 40% tổng số đại biểu Quốc hội (khoản 2 Điều 23) nhằm thể hiện quyết tâm cao trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội nói chung và đại biểu Quốc hội chuyên trách nói riêng. Quy định này sẽ tạo cơ sở pháp lý cho công tác quy hoạch, chuẩn bị nguồn nhân sự để giới thiệu tham gia ứng cử làm đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách từ Quốc hội khóa XV sắp tới, từ đó tăng cường tính chuyên nghiệp, góp phần quan trọng cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
3. Về công tác quản lý cán bộ đối với đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách:
Hiện nay, việc phân cấp quản lý cán bộ đối với đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở địa phương đang được thực hiện theo Quy định số 105-QĐ/TW ngày 19/12/2017 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 353/2017/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, công tác quản lý cán bộ đối với đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở địa phương bao gồm nhiều nội dung và có nhiều điểm đặc thù, đòi hỏi có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ ở trung ương và địa phương, đặc biệt là trong việc đánh giá hoạt động, thi đua, khen thưởng, điều động, luân chuyển... đối với đại biểu Quốc hội.
Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội đã bổ sung quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quản lý công tác cán bộ đối với đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách của địa phương mình theo quy định của Ủy ban thường vụ Quôc hội (khoản 3a Điều 43); đồng thời giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về việc thực hiện công tác cán bộ đối với đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu, chế độ, chính sách và các điều kiện bảo đảm khác đối với đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách (khoản 1 Điều 54).
Bên cạnh đó, kế thừa quy định của Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành, Luật tiếp tục quy định về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách phải tham gia hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và các hội nghị khác do Ủy ban Thường vụ Quốc hội triệu tập (khoản 3 Điều 26); bổ sung quy định đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách có quyền đăng ký tham dự hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách để thảo luận về những nội dung mà đại biểu quan tâm. Việc quy định như vậy nhằm tạo điều kiện cho đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm cũng có thể tham dự hoặc được cung cấp thông tin về các hội nghị do Ủy ban Thường vụ Quốc hội triệu tập, từ đó nâng cao chất lượng các nội dung được thảo luận, cho ý kiến tại hội trường của mỗi kỳ họp Quốc hội.
4. Về Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
So với quy định của Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều đã bổ sung một số quy định sau đây về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cụ thể, bổ sung quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định, phê chuẩn số lượng và danh sách đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại Đoàn đại biểu Quốc hội để bảo đảm tính linh hoạt và phù hợp tình hình thực tế của từng địa phương (khoản 3a Điều 43). Đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc triệu tập, tổ chức hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách căn cứ vào yêu cầu, tình hình thực tiễn để tăng cường hiệu quả hoạt động của đội ngũ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách (khoản 7 Điều 47)..
5. Về kinh phí hoạt động của đoàn đại biểu Quốc hội:
Đoàn đại biểu Quốc hội đã phát huy vai trò tổ chức, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ đại biểu tại địa phương, đồng thời giúp duy trì mối quan hệ gắn kết giữa Quốc hội với địa phương, là nơi tập hợp kiến nghị, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cả chính quyền và cử tri địa phương đến với Quốc hội.
Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội tiếp tục giữ quy định về địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội là tổ chức của các đại biểu Quốc hội được bầu tại một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc được chuyển đến công tác tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như Luật hiện hành và sửa đổi, bổ sung các quy định sau đây:
Để bảo đảm cho Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội chủ động trong kế hoạch hoạt động, Luật đã quy định nội dung về kinh phí bảo đảm cho hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội do ngân sách trung ương bảo đảm. Theo đó, tại khoản 1 Điều 101 của Luật Tổ chức Quốc hội được sửa đổi như sau: Kinh phí hoạt động của Quốc hội là một khoản trong ngân sách nhà nước do Quốc hội quyết định, bao gồm kinh phí hoạt động chung của Quốc hội, kinh phí hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội, kinh phí hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, lương của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, hoạt động phí, thù lao tham gia hoạt động Quốc hội, các khoản phụ cấp và các chế độ của đại biểu Quốc hội gắn với hoạt động của Quốc hội. Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện thí điểm Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội sẽ được hợp nhất với cơ quan khác và thuộc quyền quản lý của địa phương. Vì vậy, Luật quy định kinh phí hoạt động của bộ máy giúp việc Đoàn đại biểu Quốc hội do ngân sách địa phương bảo đảm để phù hợp với thực tiễn bố trí, sử dụng, tránh việc có nhiều chế độ, nhiều nguồn kinh phí trong một cơ quan, khó cho công tác quản lý, kiểm soát chung.
6. Về Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc Hội có bổ sung một số điểm mới sau:
- Về tên gọi của một số Ủy ban
Đổi tên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng thành Ủy ban Văn hóa, Giáo dục và đổi tên Ủy ban về các vấn đề Xã hội thành Ủy ban Xã hội để bắt đầu thực hiện từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Việc đổi tên gọi của 02 Ủy ban là để bảo đảm ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, thể hiện được lĩnh vực hoạt động chủ yếu của cơ quan.
- Về cơ cấu của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội:
Để bảo đảm tính ổn định, kế thừa quy định hiện hành, xác định rõ từng loại chức danh (vị trí việc làm), gắn với tiêu chuẩn, điều kiện, chế độ đãi ngộ cụ thể, tạo bước đệm, chuẩn bị nhân sự kế cận để có thể thu hút cán bộ về Quốc hội cũng như có thêm thời gian để đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách được trau dồi, rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm hoạt động, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội vẫn tiếp tục giữ cơ cấu Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội như Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành nhưng mở rộng cơ cấu của Thường trực Hội đồng, Thường trực Ủy ban. Theo đó, trong cơ cấu của Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội, ngoài Chủ tịch/Chủ nhiệm, Phó Chủ tịch/Phó Chủ nhiệm và Ủy viên Thường trực còn bổ sung chức danh Ủy viên Chuyên trách (khoản 3 Điều 67). Với quy định này, một mặt sẽ tạo điều kiện để thực hiện được yêu cầu của Nghị quyết Trung ương; mặt khác, giúp tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động của Thường trực Hội đồng, Thường trực Ủy ban khi có tất cả đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách làm việc thường xuyên.
- Về trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội:
Luật đã bổ sung quy định trách nhiệm của các cơ quan trong việc tham gia thẩm tra nội dung liên quan đến lĩnh vực Hội đồng Dân tộc, Ủy ban phụ trách trong dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra (khoản 1 Điều 79); trong quá trình thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban có trách nhiệm bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết với hệ thống pháp luật (khoản 1 Điều 80). Với quy định này, việc thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh thuộc các lĩnh vực sẽ được đánh giá toàn diện, khách quan hơn, bảo đảm tính chặt chẽ, nâng cao hiệu quả thi hành trong thực tiễn đồng thời cũng phù hợp với thực tế hiện nay, các cơ quan của Quốc hội luôn tích cực tham gia thẩm tra, góp ý kiến đối với dự thảo luật, pháp lệnh thuộc phạm vi, lĩnh vực phụ trách.
- Về phiên họp của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban:
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Quốc hội đã quy định cụ thể hơn về phiên họp của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, trách nhiệm tham gia phiên họp của các thành viên. Theo đó, phiên họp toàn thể của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban phải có quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng, Ủy ban tham dự. Báo cáo, nghị quyết, kiến nghị, các nội dung khác thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng, Ủy ban biểu quyết tán thành. Thành viên của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban có trách nhiệm tham dự phiên họp của Hội đồng, Ủy ban theo triệu tập của Chủ tịch Hội đồng, Chủ nhiệm Ủy ban; thảo luận và biểu quyết các vấn đề được đưa ra xem xét tại phiên họp. Trường hợp không tham dự phiên họp thì phải có lý do chính đáng, phải báo cáo và được sự đồng ý của Chủ tịch Hội đồng, Chủ nhiệm Ủy ban (Điều 87).
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 9 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2021. Đạo luật này tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội hoạt động ngày càng dân chủ, thực chất và hiệu quả hơn.
ThS. Chung Phi Long - Phòng QLĐT&NCKH