Những điểm mới trong thực hiện chế độ cử tuyển đối với học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số theo Nnghị định số 141/2020/NĐ-CP, ngày 08/12/2020 của Chính Phủ.
Cử tuyển là việc tuyển sinh không qua thi tuyển vào đại học, cao đẳng, trung cấp để đào tạo cán bộ, công chức theo yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế; đào tạo viên chức theo nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập cho các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các dân tộc thiểu số chưa có hoặc có rất ít cán bộ đạt trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp.
Chính sách đào tạo cử tuyển trong thời gian qua đã thể hiện tính ưu việt về tạo nguồn cán bộ tại chỗ cho vùng sâu, xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, việc đào tạo tràn lan không bảo đảm chất lượng, cử tuyển sai đối tượng, lãng phí tiền ngân sách, gây nhiều bức xúc trong dư luận.
Để đảm bảo việc thực hiện chế độ cử tuyển đào tạo cán bộ mang lại hiệu quả, đúng nhu cầu, đối tượng được thụ hưởng, khách quan, công bằng, công khai, minh bạch Chính phủ đã ban hành Nghị định số 141/2020/NĐ-CP, ngày 08/12/2020 quy định chế độ cử tuyển đối với học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 23/1/2020, thay thế Nghị định số 134/2006/NĐ-CP và Nghị định số 49/2015/NĐ-CP.
1. Về đối tượng cử tuyển (điều 2 Nghị định 141):
- Người học là dân tộc thiểu số thuộc đối tượng được hưởng chế độ cử tuyển gồm:
+ Người dân tộc thiểu số rất ít người;
+ Người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn chưa có hoặc có rất ít đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số.
Dân tộc thiểu số rất ít người và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được xác định theo quy định của pháp luật hiện hành (khoản 2 điều 3 Nghị định 141).
Trong khi đó, đối tượng cử tuyển được quy định tại Nghị định 134/2006/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 49/2015/NĐ-CP) gồm:
- Công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ 5 năm liên tục trở lên tính đến năm tuyển sinh, ưu tiên xét cử tuyển đối với các đối tượng là người dân tộc thiểu số. Tỷ lệ người dân tộc Kinh được cử tuyển không vượt quá 15% so với tổng số chỉ tiêu được giao.
- Công dân Việt Nam là người dân tộc thiểu số mà dân tộc đó chưa có hoặc có rất ít cán bộ đạt trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp so với số dân của dân tộc đó trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thường trú ở khu vực III, II (có thể xét cả đối tượng ở khu vực I trong trường hợp dân tộc thiểu số đó có rất ít cán bộ đạt trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp so với số dân của dân tộc đó trong phạm vi cả nước hoặc việc cử tuyển đối với các đối tượng này ở khu vực III, II không đủ chỉ tiêu được giao) từ 5 năm liên tục trở lên tính đến năm tuyển sinh. Các khu vực III, II, I nêu trên được xác định theo quy định phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi của Thủ tướng Chính phủ.
Như vậy, theo quy định mới, đối tượng được hưởng chế độ cử tuyển phải là người dân tộc thiểu số, phạm vi đối tượng áp dụng chính sách này đã bị thu hẹp nhiều so với trước đây. Do đó, người dân tộc Kinh không còn là đối tượng được hưởng chế độ cử tuyển.
2. Tiêu chuẩn chung được xét cử tuyển (khoản 1 điều 6 Nghi định 141):
- Thường trú từ 05 năm liên tục trở lên tính đến năm tuyển sinh tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; có cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ nuôi (hoặc có một trong hai bên là cha đẻ hoặc mẹ đẻ, cha nuôi hoặc mẹ nuôi), người trực tiếp nuôi dưỡng sống tại vùng này;
- Đạt các tiêu chuẩn sơ tuyển đối với các ngành, nghề có yêu cầu sơ tuyển;
- Không quá 22 tuổi tính đến năm tuyển sinh, có đủ sức khỏe theo quy định hiện hành.
Ngoài những tiêu chuẩn chung người được cử tuyển còn phải đáp ứng các quy định tại khoản 2, 3, 4 của Nghị định này.
So sánh với tiêu chuẩn cũ tại Điều 6 Nghị định 134/2006/NĐ-CP, độ tuổi tiêu chuẩn để tuyển sinh giảm từ không quá 25 tuổi xuống không quá 22 tuổi, thu hẹp phạm vi đối tượng được xem xét hưởng chế độ cử tuyển. Ngoài ra, về xếp loại hạnh kiểm của người học được cử tuyển vào đại học, cao đẳng theo tiêu chuẩn mới đã thay đổi từ "Xếp loại hạnh kiểm năm cuối cấp (hoặc xếp loại rèn luyện năm cuối khóa) đạt loại khá trở lên" thành "Xếp loại hạnh kiểm các năm học của cấp học trung học phổ thông đạt loại tốt"... Tiêu chuẩn mới cũng đã bỏ tiêu chí "Không thuộc biên chế Nhà nước" ra khỏi tiêu chuẩn tuyển sinh.
Nghị định cũng quy định các trường hợp được ưu tiên trong cử tuyển theo thứ tự tại khoản 5 bao gồm: (1) Con liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người có giấy chứng nhận người được hưởng chính sách như thương binh; (2) Học tại trường phổ thông dân tộc nội trú; (3) Trúng tuyển vào đại học, cao đẳng, trung cấp tại năm xét đi học cử tuyển; (4) Đoạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi từ cấp huyện trở lên;
Trường hợp người học thuộc đối tượng được hưởng nhiều ưu tiên đồng thời thì chỉ được hưởng một ưu tiên cao nhất trong tuyển sinh cử tuyển.
3. Thay đổi hình thức tiếp nhận sang xét tuyển đối với người được cử đi học theo chế độ cử tuyển sau khi tốt nghiệp.
Theo quy định tại Nghị định 134/2006 NĐ/CP thì người được cử tuyển sau khi tốt nghiệp sẽ được tiếp nhận và phân công công tác, thì theo quy định mới (khoản 2 điều 12 Nghị định 141/2020 NĐ/CP), người được cử đi học theo chế độ cử tuyển sau khi tốt nghiệp sẽ được tổ chức xét tuyển vào các vị trí việc làm. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm, số lượng người làm việc và số biên chế công chức được giao đối với vị trí việc làm là cán bộ, công chức; căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc làm, số lượng người làm việc được giao, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập đối với vị trí việc làm là viên chức và căn cứ vào hồ sơ người học theo chế độ cử tuyển đã tốt nghiệp để xây dựng kế hoạch xét tuyển vào công chức, viên chức đối với người học theo chế độ cử tuyển. Thời gian người học theo chế độ cử tuyển chờ xét tuyển và bố trí việc làm tối đa là 12 tháng, kể từ ngày tiếp nhận đủ hồ sơ để xét tuyển.
Ngoài ra Nghị định cũng quy định các trường hợp người học theo chế độ cử tuyển thuộc một trong các trường hợp sau đây thì phải bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo: (1) Người tự thôi học hoặc bị kỹ luật buộc thôi học, trừ các trường hợp tự thôi học do bất khả kháng; (2) Người không chấp hành việc xét tuyển và bố trí việc làm sau khi tốt nghiệp theo cam kết; (3) Người có thời gian làm việc sau tốt nghiệp theo vị trí việc làm do ủy ban nhân dân cấp tỉnh điều động ít hơn hai lần thời gian được hưởng học bổng và chi phí đào tạo; (4) Người bị kỷ luật thôi việc trong thời gian đang chấp hành nghĩa vụ làm việc theo sự điều động.
ThS. Chung Phi Long – Phòng QLĐT&NCKH