Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong di chúc Hồ Chí Minh và giá trị vận dụng hiện nay
Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân nhiều tác phẩm lý luận lớn, có giá trị, trong đó có bản Di chúc. Trong Di chúc của Hồ Chí Minh, một trong những nội dung quan trọng, có giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo Hồ Chí Minh, đó là công việc hàng đầu của Đảng, nhằm xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc
Ngay từ buổi đầu của sự nghiệp cách mạng, trong tác phẩm “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927 Hồ Chí Minh đã có một luận điểm sâu sắc: “cách mạng trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Đề cao vai trò của Đảng và trách nhiệm của Đảng trước dân tộc là quan điểm xuyên suốt của Hồ Chí Minh. Tiếp tục mạch tư duy đó, trong Di chúc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc cần thiết phải củng cố sự đoàn kết trong Đảng, nâng cao đạo đức cách mạng, đẩy mạnh công tác chỉnh đốn Đảng để qua đó Đảng có được sức mạnh và uy tín của người cầm lái.
Để xây dựng và chỉnh đốn Đảng Hồ Chí Minh căn dặn trong bản Di chúc với những nội dung sau
- Cần phải củng cố khối đại đoàn kết trong Đảng
Hồ Chí Minh đưa ra nhận định: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm tròn nhiệm vụ Nhân dân giao phó”; “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi” “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. “đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt” nên sinh thời, Hồ Chí Minh đề cập nhiều đến vấn đề đoàn kết. Cụm từ đoàn kết, đại đoàn kết xuất hiện trong tất cả các tập Hồ Chí Minh toàn tập, điều đó nói lên sự quan tâm của Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn kết ở mọi điều kiện hoàn cảnh lịch sử, tỏ rõ tầm chiến lược của đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Có 43% bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề đoàn kết, đại đoàn kết. Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một phạm trù rộng, có nhiều cấp độ và luôn bắt đầu từ đoàn kết trong Đảng bởi sự đoàn kết trong Đảng đóng vai trò là hạt “nhân” của khối đại đoàn kết dân tộc và là cơ sở cho việc thực hiện chiến lược đoàn kết quốc tế.
Chăm lo xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết trong Đảng là tư tưởng xuyên suốt, là chủ trương nhất quán của Hồ Chí Minh và lần cuối cùng được kết đọng trong Di chúc. Trong Di chúc có 8 lần Hồ Chí Minh nhắc đến cụm từ đoàn kết nhưng trong một đoạn văn ngắn viết về Đảng Người đã 5 lần sử dụng cụ từ này. Người chỉ ra nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ Nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đế thắng lợi khác”. Khi đoàn kết là nguyên nhân thắng lợi thì đoàn kết trở thành bài học kinh nghiệm lớn cần phải phát huy. Dù chỉ với một đoạn văn ngắn viết về Đảng, Hồ Chí Minh đã đúc kết cả một hệ thống biện pháp xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết trong Đảng.
Để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết trong Đảng theo Hồ Chí Minh
Trước hết, phải nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi đảng viên trong việc bảo vệ và củng cố sự đoàn kết trong Đảng. Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Trong đoạn văn trên ta nhận thấy hai vấn đề. Một mặt, Người nhấn mạnh yêu cầu củng cố và tăng cường đoàn kết trong nội bộ Đảng; mặt khác, Người lường trước nguy cơ chia rẽ trong Đảng nên kiên quyết ngăn chặn, loại bỏ.
Thứ hai, Hồ Chí Minh cho rằng để xây dựng khối đại đoàn kết trong Đảng thì phải “thực hành dân chủ rộng rãi”. Người luôn đề cao vấn đề dân chủ bởi dân chủ là đặc trưng bản chất của chế độ xã hội mà Người muốn xây dựng. Vấn đề dân chủ trong Đảng, Người cho rằng nếu không có dân chủ thì “nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà hóa ra oán ghét, chán nản”. Vì vậy, nếu không có dân chủ thì không có đoàn kết thực sự.
Thứ ba, muốn đoàn kết thì phải thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện công tác tự phê bình và phê bình, bởi trong Đảng “không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều hay”. Tự phê bình và phê bình là biểu hiện sức mạnh nội sinh của một Đảng “có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó... rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó” và đó là cách tốt nhất để “củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.
Thứ tư, trong Di chúc bổ sung năm 1969 Người bổ sung muốn có đoàn kết thật sự thì “phải có đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Sau mấy năm nghiền ngẫm Người chỉ thêm một lời dặn vào nội dung này chứng tỏ nó quan trọng đến mức nào. Một câu ngắn gọn nhưng thể hiện rõ chủ nghĩa nhân văn cũng như sự thông tuệ của Người. Sức mạnh đoàn kết, thống nhất trong Đảng được tạo nên bởi tổ chức mà tổ chức đó là sự kết nối chặt chẽ giữa các đảng viên của Đảng, trong tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, cho nên theo Hồ Chí Minh, “hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin tức là phải sống với nhau đầy tình nghĩa như vậy. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”. Tình đồng chí ở đây, ngoài việc tuân thủ những nguyên tắc về tổ chức, Điều lệ và chế độ sinh hoạt Đảng còn cần phải xuất phát từ tấm lòng nhân ái, bao dung của mỗi con người, của tình đồng chí cùng “chia ngọt, sẻ bùi”.
Như vậy, chỉ trong một đoạn văn ngắn về nội dung xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết trong Đảng đã được Người tổng kết, đúc rút và có giá trị trường tồn cho đến nay.
- Nâng cao đạo đức Đảng viên
Để nâng cao sức mạnh và uy tín của Đảng bên cạnh củng cố khối đại đoàn kết trong Đảng, còn cần phải nâng cao đạo đức Đảng viên.
Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của đạo đức cách mạng, đạo đức cách mạng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của con người. Bởi làm cách mạng cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là nhiệm vụ nặng nề, khó khăn, lâu dài, phức tạp, gian khổ. Muốn hoàn thành nhiệm vụ đó không chỉ đòi hỏi năng lực cách mạng mà cần phải có đạo đức cách mạng mới có được lòng trung thành, ý chí chiến đấu, dám xả thân vì sự nghiệp cách mạng.
Từ đó, Hồ Chí Minh coi trọng đạo đức cách mạng là gốc, nền tảng của người cách mạng. Người viết: “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nước thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được Nhân dân”. Là động lực để giúp chúng ta vượt qua mọi hoàn cảnh, Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần, chất phác, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”. Trong cuộc sống, công tác và đấu tranh cách mạng không chỉ có thời cơ, thuận lợi, mà còn nhiều khó khăn, thử thách. Lúc đó, nếu không có đạo đức cách mạng, người ta sẽ mềm lòng, nản chí, xuôi tay. Đạo đức cách mạng quyết định sự thành bại của cách mạng nước ta. Đạo đức cách mạng quyết định đến sức mạnh và vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Đặc biệt, trong điều kiện Đảng trở thành đảng cầm quyền thì vấn đề đạo đức càng quan trọng vì quyền lực rất dễ dẫn đến sự tha hóa, biến chất của mổi người. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Hồ Chí Minh trăn trở với ba nguy cơ của Đảng cầm quyền, đó là:
+ Sai lầm về đường lối
+ Suy thoái về đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
+ Những kẻ cơ hội chui vào Đảng để đặc quyền, đặc lợi.
Như vậy, việc cán bộ, đảng viên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng là một yếu tố vô cùng quan trọng để Đảng giữ được niềm tin cậy của dân, khẳng định vững chắc vai trò lãnh đạo của mình.
Để khắc phục được những nguy cơ đó, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng ta phải “là đạo đức, là văn minh”. Có thể nhận thấy, quan niệm "Đảng ta là đạo đức, là văn minh", đạo đức là "gốc" trong xây dựng Đảng là một tư tưởng xuyên suốt, nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo và không được Nhân dân tín nhiệm nữa nếu Đảng yếu kém, không trong sạch, suy thoái về đạo đức.
Thấu hiểu mọi vấn đề đó trong Di chúc, Người căn dặn: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân". Bốn lần nhấn mạnh chữ “thật” và “thật sự” chỉ trong một đoạn ngắn nói về Đảng, chắc chắn Người đã cân nhắc rất nhiều. Thật có nghĩa là đối lập với giả dối, thật sự là đối lập với qua loa, nửa vời, không đến nơi đến chốn. Thực hiện cho được một chữ thật hay thật sự có khi suốt đời chưa chắc đã làm nổi, trong khi cái giả dối, cái nửa vời lại vẫn thường trở đi trở lại hàng ngày. Điều căn dặn tâm huyết ấy của Người mãi mãi có ý nghĩa đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, đối với công tác xây dựng Đảng. Là một đảng cầm quyền, Đảng phải chịu trách nhiệm về sự hưng thịnh hay suy vong của dân tộc nên Đảng phải thực sự là đạo đức, là văn minh mới có thể lãnh đạo cả dân tộc xây dựng được một xã hội văn minh, đạo đức. Trong đó, đạo đức nhân cách con người là điểm cốt lõi, là yêu cầu hàng đầu trong văn hóa Đảng.
Thực hiện được điều căn dặn tâm huyết ấy của Người là có được vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta trong gần 40 năm, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là việc làm nhằm đảm bảo cho Đảng ta tồn tại và phát triển nên đây là mối quan tâm thường trực của Người. Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề này liên tục nhất quán. Từ năm 1949, thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp còn rất cam go, để đi đến thắng lợi phải thực hiện rất nhiều phương hướng, nhiệm vụ trong đó quan trọng là chỉnh đốn nội bộ Đảng Người nói rõ: “muốn làm được những việc trên, trước hết phải chỉnh đốn nội bộ Đảng. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã có nhiều triển vọng tốt, ta đang chuẩn bị tổng phản công thì tháng 4 năm 1952, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “chỉnh Đảng là việc làm chính mà chúng ta phải làm ngay”. Trong Di chúc khi đề cập đến kế hoạch tái thiết đất nước sau chiến tranh, Người nhấn mạnh: “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ Nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”. “chỉnh đốn lại Đảng” không có nghĩa là Đảng phạm những sai lầm nào đó cần sữa chữa, khắc phục nhưng cách luận giải của Hồ Chí Minh trong Di chúc “chỉnh đốn Đảng” là nâng cao năng lực lãnh đạo và tinh thần phục vụ Nhân dân của cán bộ, đảng viên.
Như vậy, trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết rất kỹ về vấn đề đạo đức đảng viên, về trách nhiệm của Đảng trước dân. Như một nhà tiên tri Người biết trước được sự suy thoái đạo đức cách mạng, chủ nghĩa cá nhân do đó Người căn dặn trong bản Di chúc như chứa đựng sự lo âu và cảnh báo.
2. Vận dụng Di chúc của Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay
Thực hiện những chỉ dẫn của Bác Hồ trong Di chúc, suốt 50 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng chăm lo tự xây dựng, chỉnh đốn cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Trung thành với tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng ta từ khi ra đời đến nay luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt những năm gần đây, Đảng đã có nhiều Nghị quyết, như Nghị quyết Trung ương 23, khóa III (tháng 12/1974) về xây dựng Đảng đã tạo sức mạnh, sự thống nhất ý chí, hành động của Đảng, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) là sự tự phê bình, phê bình nghiêm túc, một cuộc chỉnh đốn lớn để đi đến hoạch định đường lối đổi mới.
Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6/1992) về đổi mới, chỉnh đốn Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới phát triển mạnh mẽ vượt qua thách thức sau sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô.
Hiện nay, Đảng ta đang tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Quan điểm về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là: "Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài; "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách".
Trong thời gian vừa qua việc thực hiện Nghị quyết cũng đã đạt những kết quả nhất định. Chính vì vậy mới có những “thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử” trong công cuộc đổi mới hơn 30 năm qua. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đạt được nhiều kết quả tích cực, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa XII khẳng định “trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, hơn 86 năm qua, Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học;... thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh”.
Tuy nhiên, đúng như Hồ Chí Minh đã viết: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều Chủ trương, Nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó, gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII: Về tăng cường xây dựng, chỉnh đón Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đang được Ban chấp hành Trung ương Đảng quán triệt và triển khai thực hiện. Nghị quyết đã đánh giá tình hình công tác xây dựng Đảng trong những năm qua và chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản đẫn đến những hạn chế, yếu kém. Trong đó nhấn mạnh nguyên nhân: nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ người đấu tranh phê bình.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII thẳng thắn chỉ rõ: “Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty”. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm suy giảm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc rất phức tạp vì nó liên quan đến công tác tổ chức, đụng chạm đến con người. Việc tu dưỡng đạo đức của đảng viên cũng rất khó khăn vì phải chống kẻ thù “nội xâm” - kẻ thù ở trong mình và ở các đồng chí của mình. Khó khăn càng lớn vì nó đòi hỏi phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng ngày. Hồ Chí Minh đưa ra một lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Khó khăn là vậy nhưng nhất thiết phải làm, để thực hiện được nhiệm vụ đó thì phải có khâu đột phá với những giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng
Tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng trên nền của sự giác ngộ chính trị cao và những nguyên tắc của công tác xây dựng Đảng, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, phá hoại khối đoàn kết trong Đảng, trong toàn xã hội.
Củng cố tổ chức, chấp hành nghiêm các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt của Đảng. Đây là cơ sở để củng cố tổ chức, bảo đảm đoàn kết thống nhất, kỷ luật trong Đảng. Vì vậy, phải quán triệt, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chế độ tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII; Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX, X, XI, XII và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII để tiếp tục khơi dậy và phát huy tính tích cực, dân chủ, trách nhiệm của đảng viên. Kiên quyết chống quan điểm, tư tưởng phủ nhận, xuyên tạc, bóp méo nguyên tắc, chế độ xây dựng Đảng, hòng làm cho Đảng suy yếu về tổ chức, dẫn đến biến chất Đảng.
Thứ hai, phải thực hành dân chủ rộng rãi.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là động lực thúc đẩy tiến bộ và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, không chỉ giáo dục nâng cao nhận thức về dân chủ mà phải thực hành dân chủ rộng rãi và dân chủ thật sự, đặc biệt là trong xây dựng Đảng. Dân chủ để bảo đảm đoàn kết, thống nhất, thực hiện công bằng và bình đẳng. Dân chủ là một nguyên tắc trong phương pháp lãnh đạo, quản lý của Đảng. Nước ta là nước dân chủ, nên Nhân dân có và phải được quyền kiểm soát mọi hoạt động của Đảng nói riêng và công việc quản lý của Nhà nước nói chung.
Để giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh mỗi đảng viên, tổ chức đảng thường xuyên thực hành dân chủ: coi đó là thước đo thang giá trị văn hóa, đạo đức cách mạng của Đảng trong quá trình tự đổi mới bản thân mình về kỷ cương, tính chiến đấu, về tổ chức, nội dung và phương thức lãnh đạo.
Thứ ba, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình để xây dựng và chỉnh đốn Đảng
Để thiết thực làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, hơn bao giờ hết, tự phê bình và phê bình càng phải được chú trọng và phải thực hiện nghiêm túc “từ trên xuống”, từ trong Đảng ra ngoài xã hội. Nguyên tắc làm gương, nêu gương, nhất là nêu gương trong tự phê bình và phê bình là sự nhất quán, phải được thể hiện rõ trong từng ý tưởng, quyết sách, việc làm thường ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương.
Mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị phải tự giác, thành khẩn và gương mẫu thực hiện tự phê bình và phê bình; Đồng thời, mỗi tổ chức cơ sở đảng phải tăng cường công tác quản lý đảng viên, kiểm tra, giám sát chặt chẽ và xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên không thực hiện nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
Việc tiến hành tự phê bình và phê bình thường xuyên ở chi bộ, trong sinh hoạt Đảng phải vừa cẩn thận, vừa kịp thời, để thông qua đó kiểm điểm, đánh giá và phân loại đảng viên chính xác, khách quan. Trong khi tiến hành tự phê bình và phê bình, bản tự kiểm của cá nhân mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng phải rõ ràng, nghiêm túc, đầy đủ các nội dung; ghi rõ những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân của cả những ưu điểm và khuyết điểm; nêu rõ biện pháp cùng thời gian khắc phục theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, để tự phê bình và phê bình thiết thực và đạt hiệu quả cao. Đồng thời, khi tiến hành tự phê bình và phê bình cũng rất cần sự tham gia, giám sát tự phê bình và phê bình của quần chúng Nhân dân tại địa bàn nơi cư trú và cơ quan công tác để thiết thực góp phần giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Thứ tư, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo Di chúc
Thấu hiểu những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là lời Người để lại trong bản Di chúc lịch sử: “Trước hết nói về Đảng” và yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư…, trong các văn kiện của Đảng, nhất là từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, yêu cầu về rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm.
Tiếp tục thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc; để việc rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành việc làm thường xuyên, tự giác, mỗi cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nỗ lực học tập lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và quán triệt nghiêm túc các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng… Thông qua đó, giúp mỗi người rèn luyện và giữ vững bản lĩnh chính trị, sự kiên định lý tưởng cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, dân tộc lên trên hết, trước hết; đồng thời, thiết thực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức quần chúng Nhân dân đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống.
Hai là, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng trong mọi lĩnh vực công tác và cuộc sống đời thường để làm mẫu mực cho quần chúng. Trong đó, mỗi người, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị phải nêu gương về đạo đức, thống nhất giữa nói và làm, cao hơn là làm rồi mới nói, làm nhiều nói ít...; xây đi đôi với chống, trong xây có chống và ngược lại, xây dựng và bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức tốt đẹp gắn liền với chống những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Ba là, rèn luyện đạo đức cách mạng là việc phải làm thường xuyên, liên tục, suốt đời; là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu để phòng, chống và đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy, việc rèn luyện đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên phải được tiến hành ở mọi lúc, mọi nơi. Quá trình rèn luyện đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ với tổ chức và cá nhân, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng; phải được sự theo giám sát của cấp ủy, của Nhân dân trên tinh thần: dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng.
Chú trọng xây dựng những giá trị chuẩn mực đạo đức trong Đảng, ra sức học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa XII chỉ rõ: “Xây dựng và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, trong đó chú trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với tổ chức đảng và với Nhân dân”.
Thứ năm, phải làm tốt công tác nhân sự bởi như Hồ Chí Minh nói: “Muôn việc thành bại là do cán bộ”. Người yêu cầu người cán bộ có cả đức và tài nhưng đức và tài trong mỗi giai đoạn lịch sử lại có những biểu hiện cụ thể khác nhau. Trước kia, đức trước hết là sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc; tài là biết cách đánh giặc. Ngày nay, đức trước hết là trong sạch, không tham nhũng; tài là có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm... có thể coi đây là những tiêu chí cụ thể để lựa chọn đánh giá cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Thứ sáu, tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” cùng các Quy định “Về những điều đảng viên không được làm”, Quy định số 101-QÐ/TW “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, và gần đây nhất là Quy định số 08-QĐi/TW về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 21/1/2019 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng... Thông qua đó, tạo sự chuyển biến, từ nâng cao nhận thức sang hành động cho mỗi cán bộ, đảng viên, tại mỗi tổ chức cơ sở Đảng bằng cách gắn thực hành đạo đức cách mạng với phòng chống, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phát huy cái tích cực, đẩy lùi tiêu cực, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, góp phần quan trọng xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Để chăm lo thế nước, vun đắp lòng dân, xây dựng Đảng xứng đáng là "đứa con nòi" của dân tộc, "là người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân", dẫn dắt công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, Đảng ta phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới”.
50 năm tác phẩm Di chúc đã trôi qua, song, những điều chỉ dẫn, những lời căn dặn của Người vẫn còn nguyên giá trị, nhất là vấn đề về xây dựng, chỉnh chỉnh đốn Đảng. Chúng ta không những học tập, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói riêng mà còn phải làm theo tấm gương của Người để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng vững mạnh, đất nước phát triển, dân tộc trường tồn.
Nguyễn Thị Lê Vân - Khoa lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS, TS Hoàng Chí Bảo, PGS, TS Trần Thị Minh Tuyết: 5 tác phẩm tiêu biểu của Hồ Chí Minh - 5 bảo vật quốc gia. Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội -2017.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2011.
3. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa XI, XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà nội - 2012, 2016.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.2, tr.289.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.13, tr.119.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.10, tr.589.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.621- 622
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.622
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.320-321.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011T.15, tr.611.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.611.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.668.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.292 - 293.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2000, t.1, tr.466.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.12, tr.510.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.6, tr.15.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.7, tr.398.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.616.
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà nội - 2016, tr.19.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Nxb. Chính trị - Hành chính, H.2012, tr.18.
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà nội - 2016, tr.22.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr.612.
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà nội - 2016, tr.37.