Giáo dục Việt Nam hướng đến mục tiêu công bằng trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng bất cứ thành công nào mà xã hội loài người đạt được cho tới nay đều là kết quả từ giáo dục. Đó cũng là kết quả từ sự đóng góp của các quốc gia, dân tộc đã đầu tư cho giáo dục trong suốt hàng trăm năm qua.
Kinh tế càng phát triển, đầu tư cho giáo dục càng nhiều, điều kiện phát triển giáo dục càng thuận lợi hơn.
Ở Việt Nam, kinh tế thị trường đã hình thành và ngày càng hoàn thiện cùng với quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cũng tạo ra bối cảnh mới tác động đến nền giáo dục. Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII khẳng định quan điểm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"”.
Quan điểm trên cũng chính là định hướng cho quá trình phát triển nên kinh tế thị trường ở nước ta giai đoạn hiện nay.
Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững;….
Về lĩnh vực giáo dục, Đại hội XII cũng nhấn mạnh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động”.
Có lẽ, hầu hết những nguyên tắc cao quý của giáo dục hiện đại là sự đòi hỏi về tính công bằng. Nhưng như thế nào là công bằng hay không công bằng cũng không là một khái niệm bất biến, nó có thể được nhìn nhận khác nhau với những xã hội khác nhau, giai cấp, tầng lớp khác nhau. Tuy nhiên, nó vẫn phải có những điểm chung, chí ít thì đó cũng là việc tất cả trẻ em trên thế giới này đều phải được tới trường.
Ở Việt Nam, hướng đến nền giáo dục công bằng, cơ bản đó là: không chỉ trẻ em mà mọi người đều được đến trường, đều được hưởng điều kiện học tập cơ bản như nhau, được lựa chọn cơ hội học tập phù hợp với điều kiện kinh tế, công việc, năng lực học tập…
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, cơ hội và thách thức đối với giáo dục toàn cầu hay với Việt Nam đều rất lớn.
1. Phát triển kinh tế thị trường với tác động tích cực đã mang lại cơ hội thực hiện mục tiêu công bằng, bình đẳng trong giáo dục ở Việt nam.
Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường thì một thị trường giáo dục cũng hình thành và phát triển. Với sự phát triển của thị trường giáo dục mà sự thể hiện trước hết là có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Trong hệ thống các trường học ở Việt nam hiện nay đã xuất hiện các trường học với những hình thức sở hữu khác nhau: bên cạnh cơ sở giáo dục công lập, còn hệ thống các trường tư thục với hình thức sở hữu tư nhân trong nước và trường có yếu tố nước ngoài. Trên địa bàn tỉnh Bình Dương cũng xuất hiện các trường tư thục có yếu nước ngoài như trường Trung tiểu học Việt-Anh, trường đại học quốc tế như đại học Việt – Đức… Các thành phần kinh tế này có mặt ở tất cả các bậc học từ bậc mầm non đến giáo dục đại học. Điều này chứng tỏ rằng, kinh tế thị trường đã khai thác được nhiều nguồn lực đầu tư phát triển giáo dục, không còn bị giới hạn bởi nguồn lực từ Nhà nước và các hình thức tổ chức dạy học cũng đa dạng hơn. Đây cũng chính là đã tạo ra sự công bằng cho người học, bởi nó đã tạo ra cơ hội được đến trường nhiều hơn. Sau đó là sự lựa chọn môi trường học tập phù hợp với năng lực, điều kiện kinh tế và thời gian của mỗi người. Người học sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn là việc chỉ có hệ thống trường công lập. Ví dụ, một số người, gia đình có điều kiện kinh tế tốt có thể lựa chọn một trường quốc tế, điều kiện học tập với cơ sở vật chất, phương tiện, phương pháp dạy học hiện đại hơn, trình độ đội ngũ giáo viên cao hơn so với nhiều trường công lập, tư thục trong nước. Và như thế đồng thời, cơ hội đến trường của những người khác cũng sẽ nhiều hơn.
Thứ hai, kinh tế thị trường đánh giá tính hiệu quả thông qua các quy luật khách quan, và nó cũng tác động vào lĩnh vực giáo dục. Cạnh tranh trong giáo dục là để hướng đến một nền giáo dục thực chất, hiệu quả, không phải một nền giáo dục mà ở đó người ta chỉ muốn làm đẹp những con số như: điểm số, số học sinh giỏi, khá, số học sinh tốt nghiệp, số cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ và nhiều con số khác. Sản phẩm của giáo dục là con người với vốn tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng sống được các nhà trường trang bị. Một nền giáo dục hiện đại luôn có cách thức đánh giá người dạy, người học một cách công bằng. Ngay cả khi được đo bằng điểm số thì với sự đa dạng về hình thức và phương pháp tính điểm hiện đại cũng đủ để đảm bảo sự công bằng cho người học. Bởi kết quả cuối cùng của giáo dục luôn được đo bằng thước đo công bằng nhất đó là nền kinh tế mà trước hết là thông qua thị trường lao động, là biểu hiện của mối quan hệ giáo dục với thị trường. Vì vậy, trong kinh tế thị trường, giáo dục phải và luôn hướng tới việc đánh giá người dạy, người học bằng chính năng lực và sự thể hiện năng lực của họ. Học thế nào sẽ được thầy đánh giá kết quả tương xứng và kết quả đó còn được kiểm chứng bằng mức độ thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận một công việc nhất định của mỗi người.
Thứ ba, một nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế tạo ra sự công bằng cho người Việt Nam với thế giới. Việc giao lưu, hợp tác trong lĩnh vực giáo dục giúp cho người Việt Nam có điều kiện tiếp cận với các nền giáo dục hiện đại trên thế giới. Cơ hội không chỉ đến với người có điều kiện du học hay học các trường quốc tế ở trong nước mà cơ hội đó đến với tất cả mọi người khi hệ thống giáo dục Việt Nam phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế. Chúng ta có thể thấy ngày này nhiều trường học ở Việt Nam bao gồm cả trường công lập và trường tư thục đều có những yếu tố nước ngoài tham gia vào quá trình giáo dục, như: giáo viên dạy ngoại ngữ người nước ngoài, chương trình học, giáo trình được biên soạn tiếp cận với chương trình, giáo trình các trường học tiên tiến trên thế giới, đội ngũ giáo viên được đào tạo ở nước ngoài với vốn tri thức và phương pháp dạy học hiện đại…. Mặt khác, một thị trường lao động quốc tế hình thành và Việt Nam tham gia cũng là động lực thúc đẩy nền giáo dục nước ta phát triển. Như vậy, phát triển kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế là điều kiện để người Việt Nam thực sự trở thành công dân toàn cầu với ý nghĩa là nguồn nhân lực trí tuệ, đủ năng lực trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng sống để cùng với loài người phát triển nền kinh tế tri thức.
2. Kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế cũng có thất bại trong việc đảm bảo mục tiêu công bằng về giáo dục.
Một là, phát triển kinh tế thị trường tạo ra sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Biểu hiện ở sự chênh lệch giàu nghèo giữa từng nhóm người, giữa các khu vực thành thị với nông thôn, đồng bằng với miền núi, đất liền với hải đảo…
Điều kiện kinh tế khác nhau đã là một sự không công bằng. Đối với người nghèo, đi học có thể là một thách thức, một mơ ước khó thực hiện. Họ không thể lựa chọn ngôi trường có điều kiện học tập tốt mà họ mong muốn chỉ vì không có tiền. Đối với vùng nghèo, kinh tế kém phát triển, điều kiện học tập cũng khó khăn, ở đó không thể đáp ứng đầy đủ cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo…bằng với những vùng có điều kiện kinh tế phát triển hơn. Ở đó, người học buộc phải chấp nhận điều kiện học tập đó mà không có sự lựa chọn khác.
Trên thực tế ở Việt nam, chúng ta từng thấy hình ảnh những đứa trẻ không được đến trường bởi vì nhà nghèo, chúng phải sớm lao động để phụ giúp cha mẹ kiếm sống. Hình ảnh những trẻ em nhiều trường dân tộc miền núi vừa học vừa chăm sóc em của mình, chia sẻ cho em suất ăn của chúng. Hình ảnh lớp học ở Trường Sa rất đặc biệt, chỉ một phòng học, chỉ một cô giáo dạy học nhưng học sinh của cô có thể từ lớp 1 đến lớp 6…Với các em, học phổ thông đã khó khăn, cơ hội cho các em học những bậc học cao hơn càng khó khăn hơn, đôi khi đó chỉ dừng lại là niềm mơ ước.
Hai là, kinh tế thị trường luôn hướng đến mục tiêu đầu tiên là lợi nhuận. Lợi ích kinh tế chi phối hoạt động sản xuất, kinh doanh, giáo dục cũng không ngoại lệ. Có thể đa dạng hóa nguồn lực đầu tư vào giáo dục, nhưng kinh tế thị trường cũng dẫn dắt họ đầu tư vào những nơi có thể thu được lợi nhuận cao. Như vậy, nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục cũng tập trung ở những nơi có điều kiện kinh tế, xã hội phát triển và điều này cũng làm cho khoảng cách phát triển giữa các vùng ngày càng doãng ra. Sự bất bình đẳng trong giáo dục cũng từ nguyên nhân này. Có thể thấy ngay nguồn lực đầu tư vào giáo dục ở các thành phố như Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh hay một số thành phố khác luôn nhiều và tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Ở những nơi này, số lượng các trường học nhiều hơn, đa dạng hơn, cơ sở vật chất được trang bị đầy đủ hơn, hiện đại hơn, đội ngũ giáo viên cũng tập trung nhiều về số lượng và cao hơn về chất lượng so với những vùng khó khăn. Ở vùng núi, trường học không đủ nên phải học 2 ca, có khi 3 ca một ngày. Không chỉ thiếu cơ sở vật chất mà còn thiếu cả giáo viên. Nghịch lý hiện nay là thành phố, thị xã thì thừa giáo viên còn vùng núi, hải đảo thì thiếu rất nhiều. Ở các tỉnh miền núi phía Bắc, thậm chí những huyện miền núi ở Thanh Hóa, Nghệ An và nhiều vùng nông thôn miền tây… đều thiếu giáo viên ở tất cả các bậc học, có nơi trẻ em không thể đến trường vì thiếu giáo viên.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế với mục tiêu một nền giáo dục công bằng tuy không mâu thuẫn nhưng để đạt được mục tiêu đó cũng không dễ dàng.
Những thất bại của kinh tế thị trường cần được khắc phục bằng vai trò quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
3. Đề xuất một số giải pháp
Từ khi phát triển kinh tế thị trường, với quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm phát triển nền giáo dục. Có nhiều chính sách được thực hiện. Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định sự quan điểm hướng tới mục tiêu công bằng trong phát triển giáo dục: “Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý” (Khoản 2 Điều 61) và “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa và học nghề” (Khoản 3 Điều 61). Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, khắc phục thất bại của kinh tế thị trường, để đạt được mục tiêu công bằng trong giáo dục, cần thực hiện những giải pháp cơ bản sau:
Một là, đảm bảo thực hiện tốt chính sách xã hội, trong đó nhất là chính sách giáo dục tối thiểu để bảo đảm không còn tình trạng người nghèo không được đến trường, không được đi học
Hai là, tái cơ cấu đầu tư từ ngân sách Nhà nước đối với ngành giáo dục, trong đó ưu tiên tập trung vào mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống trường công lập. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và có chính sách hợp lý hơn nữa để thu hút giáo viên về những vùng khó khăn.
Ba là, đẩy mạnh thực hiện các biện pháp nhằm xóa đói, giảm nghèo. Đây là giải pháp có ý nghĩa bền vững nhất.
Bốn là, sửa đổi, hoàn thiện chính sách ưu tiên hiện nay đối với học sinh vùng khó khăn như nông thôn, miền núi, người khuyết tật…để mục tiêu công bằng của chính sách phải thực sự công bằng với tất cả mọi người.
Sau 30 năm đổi mới đất nước gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền giáo dục Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thành tựu. Với sự phát triển nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội XII của Đảng cũng đã đề ra mục tiêu về giáo dục: “Phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”; và những nội dung đó cũng đã bao hàm mục tiêu công bằng./.
ThS. Phan Văn Bằng
Giảng viên khoa Lý luận Mác-Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. - Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà nội.2016
2. - Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà nội.2015
3. - Học viện Chính trị quốc gia, Giáo trình trung cấp Lý luận chính trị-Hành chính (Đường lối chính sách của Đảng và nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội), Nxb.Lý luận chính trị, Hà Nội.2014
4. - Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội.2013
- www.nhandan.org.vn