Hội nhập kinh tế quốc tế - những cơ hội và thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương
1. Khái quát về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là xu hướng tất yếu của thời đại. Với Việt Nam, hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại, hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước, đất nước ta đã từng bước, chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cụ thể như sau:
- Tháng 12/1987, ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Năm 1993, khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, ADB, WB.
- Ngày 28/7/1995, chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Từ ngày 1/1/1996, bắt đầu thực hiện nghĩa vụ và các cam kết trong các chương trình ưu đãi thế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA.
- Tháng 3/1996, tham gia Diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM) với tư cách thành viên sáng lập. Nội dung hợp tác chủ yếu tập trung vào thuận lợi hóa thương mại và đầu tư, hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp Á – Âu.
- Ngày 15/6/1996, gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11/1998 được công nhận là thành viên chính thức của tổ chức này.
- Ngày 13/7/2000, Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) được ký kết và chính thức có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. Đây cũng là hiệp định đầu tiên Việt Nam đàm phán trên cơ sở các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
- Sau 14 vòng đàm phán đa phương và kết thúc đàm phán song phương với 28 nước đối tác có yêu cầu, ngày 7/11/2006 Việt Nam đã được kết nạp là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và đến ngày 11/1/2007 trở thành thành viên chính thức của Tổ chức này.
- Ngày 31/12/2015, Việt Nam và các nước thành viên ASEAN đã ký hiệp định thành lập Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột chính: cộng đồng kinh tế – xã hội; cộng đồng an ninh; cộng đồng văn hóa.
- Là thành viên ASEAN, Việt Nam tham gia các hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc; ASEAN – Nhật Bản; ASEAN – Ấn Độ; ASEAN – Hàn Quốc.
- Năm 2015, Việt Nam đã ký kết các hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do song phương với các tổ chức và quốc gia trên thế giới, đó là:
+ Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do Việt Nam – Liên minh kinh tế Á – Âu (gồm Liên bang Nga 6 nước khác thuộc Liên Xô cũ).
+ Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (gồm 28 nước).
+ Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do song phương Việt Nam – Hàn Quốc.
+ Ngày 8/3/2018, Việt Nam chính thức ký kết tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Hiệp định có hiệu lực từ ngày 14/1/2019 tại Việt Nam. Đây là một Hiệp định được kỳ vọng sẽ trở thành một khuôn khổ thương mại toàn diện, có chất lượng cao và là khuôn mẫu cho các Hiệp định thế kỷ XXI.
- Đúng 16 giờ ngày 30/6/2019, tại Hà Nội, Hiệp định thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA) giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) đã chính thức được ký kết sau 9 năm đàm phán kéo dài.
Như vậy, với chủ trương của Đảng ta là “tích cực và chủ động hội nhập kinh tế thế giới” nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đối ngoại là phải tạo lập được môi trường quốc tế hòa bình thuận lợi cho đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văm minh.
2. Cơ hội và thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Bình Dương là một tỉnh công nghiệp, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Cho đến nay, sau hơn 20 năm tái lập, Bình Dương đã là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế. “Toàn tỉnh hiện có 29 khu công nghiệp (trong đó 27 khu công nghiệp đi vào hoạt động), diện tích 12.743 ha, tỷ lệ cho thuê đạt 80,8% và 12 cụm công nghiệp, diện tích 790 ha, tỷ lệ cho thuê đạt 70,6%”. Nhờ hạ tầng đảm bảo, trong thời gian qua, tỉnh Bình Dương đã thu hút đầu tư rất hiệu quả. Chỉ riêng đầu tư trong nước, tính đến ngày 15/11/2018, “đã thu hút được 52.861 tỷ đồng vốn đăng ký kinh doanh (tăng 25,3%), gồm: 5.196 doanh nghiệp đăng ký mới (32.502 tỷ đồng), 961 doanh nghiệp điều chỉnh tăng vốn (21.935 tỷ đồng) và 26 doanh nghiệp giảm vốn (663 tỷ đồng); có 245 doanh nghiệp giải thể (913 tỷ đồng). Lũy kế đến nay, toàn tỉnh có 35.863 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, tổng vốn đăng ký 290.071 tỷ đồng”.
Đến cuối năm 2018, tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) ước tăng 9,01%; GRDP bình quân đầu người 130,8 triệu đồng; cơ cấu kinh tế công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp – thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm với tỷ trọng tương ứng là 63,87% – 23,94% – 3,08% – 9,11%. Với những thành tựu như vậy, Bình Dương đang thuộc nhóm tỉnh, thành dẫn đầu cả nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hơn 32 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, những thành tựu to lớn mà Bình Dương đã đạt được sau hơn 20 năm tái lập tỉnh trong hội nhập quốc tế, trước hết trên lĩnh vực kinh tế, là kết quả của cả một quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với chủ trương trải thảm đỏ đón đầu tư và thu hút nhân tài; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để Bình Dương càng vững bước trên đường hội nhập, tận dụng tốt nhất những điều kiện mới đã và đang mở ra.
a. Cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế mở ra khả năng cho các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh như vốn, lao động, khoa học – công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý nền sản xuất lớn; nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực sản xuất, mở rộng thị trường trong một số lĩnh vực cụ thể như: công nghiệp, thương mại, các ngành dịch vụ…; tham gia nhanh và có hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển. Từ đó sẽ có tác động mạnh đến sự tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi trường. Theo đó, các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương sẽ tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn; thúc đẩy thương mại, tăng thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và mở rộng quan hệ hợp tác phát triển (ODA). Chính vì thế, Bình Dương sẽ có cơ hội thuận lợi đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và rút ngắn thời gian vật chất của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội lớn để các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương mở rộng thị trường xuất khẩu. Việc nước ta gia nhập các định chế, tổ chức kinh tế, tài chính khu vực cũng như toàn cầu như IMF, ADB, WB hay tham gia WTO, CPTPP và mới đây nhất là EVFTA sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo quy định. Như thế, các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương sẽ có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu, từng bước mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn, kim ngạch xuất khẩu luôn được duy trì ở mức cao (bình quân 5 năm qua là 19,5%) thì điều này càng có ý nghĩa quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng nhanh và bền vững của tỉnh Bình Dương.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế giúp các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương tham gia vào chuỗi sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở rộng và phát triển thương mại quốc tế để đẩy mạnh hoạt động xuất, nhập khẩu; tiếp thu được khoa học – công nghệ mới và kỹ năng quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, kỹ thuật, văn hóa – xã hội… Các doanh nghiệp sẽ tạo thêm việc làm. Các ngành có tốc độ tăng việc làm cao nhất cũng là những ngành mở cửa nhanh hơn hoặc những ngành áp dụng công nghệ mới để cạnh tranh, tạo tài sản sản xuất và hạ tầng như công nghệ chế tạo, xây dựng, tài chính ngân hàng, khoa học công nghệ… Từ đó sẽ tác động tích cực tới tiền lương và thu nhập của mọi tầng lớp cư dân, tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh (doanh nghiệp và sản phẩm). Song song đó, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp nhiều doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương nhận thức một cách rõ ràng hơn về những điểm còn hạn chế trong năng lực cạnh tranh của mình để từ đó có những đề xuất cải tiến trong sản xuất, kinh doanh và tìm kiếm thị trường mới một cách có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp trong nước ở Bình Dương, do đó sẽ có cơ hội tham gia chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất khu vực và toàn cầu; chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo, dịch vụ có giá trị và hàm lượng công nghệ cũng như giá trị gia tăng cao hơn.
Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế còn là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Gia nhập WTO, tham gia CPTPP và EVFTA sẽ giúp các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác, có quyền thương lượng và khiếu nại công bằng hơn đối với các tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp mình. Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế cũng thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động giao lưu văn hóa và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Dưới ảnh hưởng đó, tri thức loài người kết tinh cô đọng ở các phát minh, sáng chế khoa học, kỹ thuật, công nghệ... được phổ biến rộng rãi toàn thế giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân loại. Cũng như nhiều nước khác, tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta tạo ra cơ hội thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước ở Bình Dương chia sẻ lợi ích do toàn cầu hóa đưa lại, đồng thời đóng góp thiết thực vào tiến trình phát triển hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực khác.
b. Thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Thứ nhất, hệ thống pháp luật của Việt Nam (đặc biệt là hệ thống chính sách kinh tế, thương mại) chưa hoàn thiện và chưa đồng bộ. Vì vậy, khi vận hành nền kinh tế thị trường sẽ thiếu những cơ sở pháp lý để quản lý, ngăn ngừa, xử lý những hành vi vi phạm. Đặc biệt là có những luật chưa tương thích với những thông lệ và luật pháp quốc tế. Do đó, các doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam nói chung, Bình Dương nói riêng hoạt động trên thị trường quốc tế khó tránh khỏi những vi phạm luật pháp và thông lệ quốc tế. Chẳng hạn: về cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công nghiệp và người dân chưa có thói quen tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ...
Thứ hai, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân của Bình Dương còn nhỏ bé nên năng lực cạnh tranh thấp, lại phải chịu sức cạnh tranh lớn từ doanh nghiệp nước ngoài (cả trong nước và quốc tế; cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn), dẫn đến một số ngành nghề bị ảnh hưởng do tác động của việc mở cửa thị trường. Nhập khẩu tăng mạnh, song thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị giảm. Năng suất lao động tăng chậm, thu hút đầu tư vẫn dựa vào lợi thế nhân công và chi phí mặt bằng rẻ nên đã ảnh hướng nhiều đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp và sản phẩm.
Thứ ba, sự phát triển của tỉnh Bình Dương hiện nay vẫn phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhưng chưa thực sự vững chắc (năm 2018, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 25 tỷ 280 triệu đô la Mỹ, nhập khẩu là 20 tỷ 500 triệu đô la Mỹ), chất lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tuy đã chuyển dịch mạnh sang hàng chế biến, chế tạo nhưng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, về cơ bản nền kinh tế của tỉnh vẫn dựa chủ yếu vào tăng trưởng thương mại, khai thác tài nguyên, khoáng sản, xuất khẩu hàng nông sản thô với hàm lượng chế biến thấp và gia công hàng hóa ở công đoạn thấp của chuỗi giá trị (như dệt may, giày da, điện tử…). Vì vậy mà sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương còn rất nhiều hạn chế do chưa đáp ứng được tiêu chuẩn cao về chất lượng hàng hóa cũng như chưa tuân thủ triệt để các điều khoản quy định về vệ sinh, môi trường, lao động và quy trình công nghệ…
Thứ tư, tính cạnh tranh chưa cao của lực lượng lao động, năng suất lao động thấp và trình độ công nghệ của đa số các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương còn khá lạc hậu. Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương sẽ phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính – tiền tệ, đầu tư... chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các tâp đoàn kinh tế phát triển hàng đầu thế giới. Dựa vào sức mạnh kinh tế, họ sẽ đặt ra các “luật chơi” cho phần còn lại của thế giới khi tham gia vào quá trình hội nhập. Trên thực tế, đây là hoạt động lũng đoạn của tư bản độc quyền quốc tế và dĩ nhiên phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các doanh nghiệp của các nước đang phát triển, trong đó có nước ta...
3. Giải pháp.
Trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định song phương, đa phương thế hệ mới. Trong khi đó, Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng kinh tế ASEAN và WTO, tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn rất nhiều so với giai đoạn trước. Do vậy, trong giai đoạn mới đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước nói chung và Bình Dương nói riêng phải chủ động và tích cực hơn nữa trong việc tận dụng các cơ hội, vượt qua các khó khăn thách thức, giảm thiểu các tác động tiêu cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
a. Đối với địa phương.
Nhằm nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh hội nhập kinh tế quốc tế, thời gian tới, Bình Dương sẽ tiếp tục triển khai nhiều giải pháp để hội nhập ngày càng sâu rộng với quốc tế. Theo đó, Ủy Ban nhân dân tỉnh sẽ tập trung tăng cường tuyên truyền các luật, quy định liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp với các nội dung liên quan đến các Hiệp định thương mại tự do mà nước ta đã tham gia và đang trong quá trình đàm phán. Quan tâm và đẩy mạnh công tác cải cách hành chính. Cụ thể, tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm hành chính công; đưa vào vận hành một số phần mềm quản lý; ra mắt Trang thông tin điện tử dịch vụ hành chính công. Đặc biệt, ngành thuế và hải quan đã đẩy mạnh công tác cải cách hành chính theo tinh thần Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh. Trong đó, đẩy mạnh công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực thuế và hải quan để rút ngắn thời gian nộp thuế và thông quan hàng hóa. Bên cạnh đó, Ủy Ban nhân dân tỉnh và các sở, ban, ngành luôn lắng nghe và nắm bắt những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp thông qua việc tiếp xúc, đối thoại với doanh nghiệp (năm 2018, Ủy Ban nhân dân tỉnh đã tổ chức 2 Hội nghị tiếp xúc, đối thoại nhà đầu tư, 1 Hội nghị trong nước và 1 Hội nghị nhà đầu tư nước ngoài và 1 Lễ trao giấy chứng nhận đầu tư), Hiệp hội ngành hàng và kịp thời tháo gỡ bằng các cơ chế, chính sách để hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp phát huy hiệu quả cao nhất.
Song song đó, tỉnh sẽ thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có lợi thế, có công nghệ cao và giá trị gia tăng cao như: dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, logistics, y tế, giáo dục, du lịch, viễn thông, đặc biệt các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp góp phần ổn định, hỗ trợ sản xuất, huy động nguồn hàng xuất khẩu. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại mở rộng thị trường xuất khẩu, thị trường trong nước để tiêu thụ hàng hóa, tiếp tục duy trì thế mạnh xuất siêu của tỉnh; định hướng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đăng ký thương hiệu sản xuất xuất khẩu, chỉ dẫn địa lý (thông tin về nguồn gốc của hàng hóa). Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp; từng bước tăng tỷ lệ công nghiệp có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao, tiết kiệm năng lượng, ít gây ô nhiễm môi trường.
Tỉnh cũng sẽ tiếp tục quan tâm đầu tư hệ thống hạ tầng và kết nối du lịch trong vùng; khai thác tuyến du lịch đường sông, các di tích lịch sử, văn hóa, danh thắng… để đảm bảo phát triển du lịch bền vững. Đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình giao thông quan trọng trên địa bàn tỉnh nhằm tăng tính kết nối của Bình Dương với các địa phương trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và các đầu mối giao thương quốc tế. Tỉnh cũng chủ trương sẽ thực hiện quyết liệt, đồng bộ công tác cải cách hành chính. Cụ thể, tiếp tục phát huy những chỉ số đã đạt được và khắc phục những hạn chế để nâng cao Chỉ số cải cách hành chính, Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và Chỉ số hội nhập kinh tế quốc tế với hiệu quả cao nhất. Hoàn thiện phần mềm một cửa, kết nối thông suốt với các phần mềm cấp huyện, cấp xã và các phần mềm chuyên ngành. Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính của cơ quan hải quan và thuế nhằm rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, xuất nhập khẩu và thu – hoàn thuế của doanh nghiệp, đáp ứng các quy định của các Hiệp định thương mại tự do mà nước ta đã tham gia.
Củng cố và phát triển mối quan hệ với các tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện của nước ngoài tại Việt Nam và các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam tại nước ngoài nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn cho yêu cầu công tác đối ngoại của tỉnh. Triển khai các hoạt động ngoại giao văn hóa hiệu quả và thiết thực, góp phần xúc tiến thương mại, đầu tư, quảng bá du lịch, văn hóa đến bạn bè quốc tế. Tiếp tục thực hiện tốt các thỏa thuận hợp tác hữu nghị đã được ký kết; đồng thời xúc tiến thiết lập quan hệ hữu nghị giữa tỉnh Bình Dương với các thành phố Oryol (Liên bang Nga), Emmen (Hà Lan), Daegu (Hàn Quốc) và Porland (Hoa Kỳ) nhằm đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, kêu gọi đầu tư qua các kênh giao lưu đa phương.
Cùng với đó, tỉnh cũng đã tích cực phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và cơ quan nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh, các Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan… để tìm các đối tác tin cậy, các nguồn vốn đầu tư, giới thiệu các thế mạnh và những dự án ưu tiên của tỉnh ra bên ngoài. Song song đó, các cấp lãnh đạo tỉnh đã đón nhiều đoàn khách của các tập đoàn kinh tế, các công ty đa quốc gia và các doanh nghiệp lớn của nước ngoài đến thăm, tìm hiểu về tình hình phát triển kinh tế – xã hội, khảo sát môi trường đầu tư, cơ hội hợp tác kinh doanh tại tỉnh. Ngoài ra, tỉnh cũng chú trọng đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới.
b. Đối với doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương cần chủ động tìm hiểu, đổi mới phương thức kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tận dụng tối đa các cơ hội về thị trường, vốn, công nghệ… mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần có quá trình tích lũy nội lực cả về chất lượng sản phẩm, giải pháp lẫn năng lực kinh doanh quốc tế. Khai thác tối đa thị trường trong nước, đồng thời, xây dựng đội ngũ nhân lực có khả năng quản trị tốt, nâng cao chất lượng dịch vụ, marketing, sale... Đây là thời đại: muốn tồn tại, doanh nghiệp phải thích nghi; muốn phát triển, doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, sáng tạo.
Có thể nói, hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách thức đan xen, tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hóa lẫn nhau. Cơ hội và thách thức chỉ trở thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ quan có tính quyết định rất lớn. Với những giải pháp nêu trên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh Bình Dương đã và đang mang lại những kết quả đáng khích lệ; tạo ra một môi trường đầu tư, sản xuất và kinh doanh thông thoáng; đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư và kinh doanh. Các định hướng, chính sách và sự hỗ trợ của tỉnh đã mang lại những thành công cho các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh; giúp nhiều doanh nghiệp nhận thức một cách rõ ràng hơn về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; chỉ ra những điểm còn hạn chế trong năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và đề xuất những cải tiến trong sản xuất, kinh doanh và tìm kiếm thị trường mới thời gian tới của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh…
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng bộ tỉnh Bình Dương, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 – 2020.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình trung cấp lý luận chính trị – hành chính: Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
4. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình cao cấp lý luận chính trị, Khối kiến thức thứ nhất: Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tập 2, Kinh tế chính trị học Mác – Lênin, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
5. Ủy Ban Nhân dân tỉnh Bình Dương: Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh năm 2018, phương hướng nhiệm vụ năm 2019.
ThS. Nguyễn Văn Hân - Giảng viên Khoa Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh