Những điểm mới trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác xây dựng Đảng - Vận dụng vào giảng dạy môn Xây dựng Đảng ở Trường Chính trị tỉnh
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 20 đến ngày 28-01-2016 tại Thủ đô Hà Nội. Với sự có mặt của 1.510 đại biểu, những đảng viên ưu tú, tiêu biểu cho trí tuệ, sự thống nhất ý chí và hành động, sức mạnh đoàn kết của toàn Đảng, đại diện cho hơn 4,5 triệu đảng viên về dự Đại hội.
1. Ý nghĩa Đại hội XII của Đảng
Đại hội lần thứ XII của Đảng diễn ra trong thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng: Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; trải qua 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, 2 năm thực hiện Hiến pháp năm 2013, 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng (2011-2015); nhìn lại 30 năm đổi mới; quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2016-2020; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng khóa XI; bầu Ban chấp hành Trung ương Đảnng khóa XII.
Nhận thức sâu sắc sứ mệnh và trọng trách trước đất nước, dân tộc, Đại hội khẳng định quyết tâm tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ, phẩm chất và đạo đức cách mạng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đại hội nhấn mạnh yêu cầu tăng cường sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng trên cơ sở Cương lĩnh, đường lối, quan điểm, nguyên tắc của Đảng; thường xuyên bồi đắp sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Vì vậy, Đại hội XII của Đảng có ý nghĩa rất trọng Đại, định hướng, cổ vũ và động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong 5 năm tới: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2. Những điểm mới về công tác xây dựng Đảng
2.1. Về chủ đề của Đại hội XII
“Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ XHCN; đẩy mạnh toàn dân, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”
So với văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI thì Đại hội Đảng lần này chủ đề rõ ràng hơn, có những bổ sung, điều chỉnh về nội dung của các mục tiêu. Trong tiêu đề có 5 điểm mới thể hiện tính bao quát, cơ bản nhất và định hướng đất nước trong giai đoạn tới. Thứ nhất, về sự lãnh đạo của Đảng, Đại hội XII chỉ rõ là “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” trong đó Đại hội XI nhấn mạnh “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Thứ hai, về tính dân tộc, dân chủ, thì Đại hội XII lần này nhấn mạnh và bổ sung thêm cụm từ “dân chủ XHCN”. Thứ ba, về sự đổi mới Đại hội XII chỉ rõ là “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới”. Trong nội dung đó, yếu tố “đồng bộ” được nhấn mạnh để khắc phục những hạn chế trong thực tiễn những năm qua là “đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện”, đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế”, còn nhiều vấn đề phức tạp, nhiều hạn chế yếu kém cần phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Thứ tư, về bảo vệ Tổ quốc. Lần đầu tiên đưa nội dung: “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định” vào chủ đề XII của Đảng. Thứ năm, về mục tiêu xây dựng đất nước. Đại hội XII có điều chỉnh so với Đại hội XI là “phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” qua đó thể hiện cách nhìn thực tế hơn, quyết tâm cao nhất đối với tiến trình CNH, HĐH đất nước.
Những mục tiêu được xác định đều sát hợp với thực tiễn của đất nước. Qua đó, thấy rõ tư duy và nhận thức của Đảng về nhiệm vụ lãnh đạo đất nước trong tình hình mới ngày càng được hoàn thiện.
Chủ đề Đại hội XII mang tính định hướng có tính nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt nhiệm kỳ, vì vậy khi vận dụng vào nghiên cứu, giảng dạy phải lấy nội dung chủ đề làm cốt lõi chỉ dẫn.
2.2. Một số điểm mới về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội Đảng lần này xác định xây dựng Đảng được xếp vị trí số 1 trong 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ. Đồng thời nhấn mạnh đến công tác tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ, đảng viên với những vấn đề cấp bách cần làm ngay. Đặc biệt “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã giành riêng 36 trang cho phần nội dung về xây dựng Đảng (tức bằng ¼ số trang so với toàn bộ nội dung trong Báo cáo Chính trị).
Những nội dung về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng tại Đại hội XII lần này có mấy điểm mới sau đây:
Thứ nhất, Đại hội Đảng khóa XII nêu 10 nhiệm vụ cho công tác xây dựng Đảng (tăng 2 nhiệm vụ so Đại hội XI). Hai nhiệm vụ mới được bổ sung đó là:
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân
Nhiệm vụ này Đảng ta đặt ra mục tiêu củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài; là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và của toàn bộ hệ thống chính trị. Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí.
Thứ hai, Đại hội lần này Đảng ta nhấn mạnh đến việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Đây là nghị quyết cụ thể hóa việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng, là bước đột phá về công tác xây dựng Đảng, được toàn Đảng, toàn dân đặc biệt quan tâm và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao.
Qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình, tập thể và cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã làm rõ hơn, sâu sắc hơn ưu điểm, khuyết điểm và những hạn chế của tập thể, cá nhân trên một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng. Ở cấp tỉnh và tương đương, từng tập thể và cá nhân đã nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn ưu, khuyết điểm của mình; đồng thời phân tích làm rõ một số nguyên nhân chủ yếu của hạn chế, khuyết điểm. Nhiều tập thể, cá nhân ở mức độ khác nhau đã nhận dạng rõ hơn, sâu sắc hơn những biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của tập thể và cá nhân.Tập thể cấp ủy các cấp đã nghiêm túc tự nhận hình thức kỷ luật và nhận khuyết điểm với Trung ương, Đảng bộ và nhân dân địa phương; đồng thời nghiêm túc xử lý một số đồng chí có khuyết điểm. Tính đến cuối năm 2014, toàn Đảng đã xử lý kỷ luật hơn 54.000 đảng viên ở các cấp, xóa tên, cho ra khỏi Đảng hàng nghìn trường hợp khác, trong đó, một số trường hợp phải xử lý bằng pháp luật, đã góp phần cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, ngăn chặn và đẩy lùi được một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong Đảng.
Song, nhìn tổng thể chưa đạt yêu cầu. Một bộ phận cán bộ, đảng viên nhận thức về việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình chưa toàn diện; việc góp ý kiến vào báo cáo kiểm điểm của cấp ủy cấp trên, nhất là góp ý cho cá nhân trước khi tiến hành kiểm điểm còn biểu hiện nể nang, né tránh, xuôi chiều, chủ yếu là thể hiện sự mong muốn, ít đề cập những hạn chế, khuyết điểm. Không ít cán bộ, đảng viên và một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp chưa thực sự gương mẫu; chưa chỉ rõ được tình hình cụ thể của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở từng địa phương, đơn vị. Một số cấp ủy và tổ chức đảng chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo mạnh mẽ, quyết liệt; còn có biểu hiện chủ quan, làm lướt…
Cho nên thời gian tới cần kiên quyết, kiên trì với quyết tâm chính trị cao tiếp tục đẩy mạnh thực hiện toàn diện Nghị quyết Trung ương 4 gắn với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhằm tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ XHCN; đẩy mạnh toàn dân, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thứ ba, những Văn kiện Đại hội khóa trước, Đảng ta đều xác định mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trên 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nhưng ở Đại hội XII chỉ ra 4 mục tiêu: “ Tập trung thực hiện mục tiêu: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Như vậy, có bổ sung thêm mục tiêu về “đạo đức” và việc bổ sung này là đúng đắn và kịp thời. Mục tiêu này chưa được đề cập ở những Văn kiện Đại hội các khóa trước không có nghĩa là Đảng ta xem nhẹ điều này mà cần hiểu rằng ở thời điểm này cần phải tập trung nhấn mạnh. Tất cả vấn đề này đều xuất phát từ chính thực trạng của Đảng ta hiện nay và cũng là thể hiện sự trưởng thành về mặt nhận thức và tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong nhiệm vụ xây dựng Đảng.
3. Vận dụng Nghị quyết Đại hội XII vào giảng dạy môn Xây dựng Đảng tại Trường Chính Trị tỉnh.
Vấn đề đưa nội dung Văn kiện Đại hội XII vào bài giảng là cần thiết, đặc biệt đưa những vấn đề mới về xây dựng Đảng trong quá trình giảng dạy là một yêu cầu tất yếu. Do đó, giáo viên cần có sự tìm tòi, sáng tạo trên tinh thần trao đổi, tham khảo và học hỏi lẫn nhau, có như vậy giáo viên mới nâng cao nhận thức và kiến thức bổ sung vào quá trình giảng dạy bộ môn Xây dựng Đảng ở Trường Chính trị tỉnh.
Vì vậy, để vận dụng Nghị quyết vào bài giảng môn xây dựng Đảng đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi giáo viên cần thực hiện tốt các biện pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, Nắm chắc nội dung Nghị quyết liên quan đến các chuyên đề bài giảng
Việc nắm chắc nghị quyết trước khi vận dụng vào giảng dạy là điều rất cần thiết, vì vậy, người giáo viên phải được học nghị quyết và nghiên cứu sâu các nghị quyết của Đảng. Một là, Đảng ủy tạo điều kiện để giáo viên nắm bắt tinh thần nghị quyết kịp thời. Hai là, qua học nghị quyết giáo viên tự rút ra bài học cần nắm chắc cái gì và vận dụng như thế nào.
Thứ hai, tăng cường công tác thi đua trong dạy và học
Tại Khoản 1, Điều 3 của Luật thi đua khen thưởng năm 2003, có ghi: Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đối với người dạy, thi đua giảng dạy giỏi trong đó có nội dung đánh giá quan trọng là việc vận dụng các nghị quyết, văn kiện Đảng toàn quốc, Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh vào từng bài giảng. Để văn kiện, nghị quyết lần này của Đảng đi vào cuộc sống, việc sử dụng tích hợp các phương pháp dạy học theo mô hình giáo dục tích cực được nhà trường chú trọng. Nhằm tránh sự khô khan trong truyền giảng nghị quyết, nhà trường yêu cầu giảng viên cần đổi mới cách giảng dạy theo hướng sáng tạo, gợi mở, kết hợp sinh động giữa lý thuyết với thực tiễn. “Giảng viên sẽ lưu ý người học trong việc vận dụng những tri thức về xây dựng Đảng vào giải quyết những vấn đề cụ thể của thực tiễn nghề nghiệp và thực tiễn xây dựng Đảng ở cơ sở. Trong tiết học, giảng viên phải tìm cách khuyến khích người học tích cực tham gia ý kiến, suy nghĩ của mình về nghị quyết và tự đề ra cách thức của bản thân để thực hiện nghị quyết, có liên hệ mật thiết hoạt động thực tiễn của chi bộ, đảng bộ nơi công tác. Từ đó, phê phán những quan điểm sai trái, hướng dẫn xây dựng quan điểm lành mạnh, đúng đắn trên tất cả các mặt nhận thức, hành động, rèn luyện và phong cách công tác”.
Ngoài ra, trong dạy và học, giáo viên lồng ghép nghị quyết với các môn lý luận chính trị: nên tăng cường trao đổi nghiệp vụ, khi thảo luận cần đưa ra các điển hình về tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh và không trong sạch vững mạnh, cả những tình huống thực tế khi triển khai nghị quyết… để học viên xử lý, giải quyết bằng vốn thực tiễn của bản thân, góp phần tạo sự lý thú trong giờ học. Lưu ý rằng trong tất cả các khâu của quá trình dạy học, giảng viên phải nhất quán thực hiện theo tôn chỉ “giảng đúng, liên hệ trúng và rèn luyện hay”.
Thứ ba, lấy ý kiến phản hồi nhận thức bài học từ học viên
Sau hoạt động dạy, giáo viên cần lấy ý kiến ngay về những chuyên đề mình đã giảng, qua đó nắm được khả năng nhận thức của học viên và có phương thức điều chỉnh cho phù hợp từng đối tượng. Ví dụ: những chuyên đề nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng được giảng dạy tại trường, có lớp thì đề nghị giáo viên đọc cho ghi, ngại vì giáo viên dùng phương pháp hỏi- đáp hoặc phương pháp thảo luận; có lớp lại thích dùng phương pháp chuyên gia, cũng có lớp thích dùng phương pháp tình huống,…Vì vậy, để đáp ứng được lượng kiến thức từ người học giáo viên phải thực hiện công tác lấy ý kiến phản hổi ngay.
Về phía nhà trường, thực hiện theo Hướng dẫn số 09/HD-HVCT của Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh ngày 23/01/2015 về việc lấy phiếu phản hồi từ người học về chất lượng bài giảng của giảng viên các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuôc trung ương và các trường bộ, ngành. Việc lấy phiếu phản hồi phải hướng đến đích là“nhằm đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên; Góp phần rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, năng lực sư phạm và nâng cao chất lượng bài giảng của giảng viên; Tăng cường trách nhiệm của của học viên trong việc thực hiện các quy chế về đào tạo; tạo điều kiện để học viên phản ánh chính kiến về bài giảng của giảng viên, nâng cao ý thức, thái độ và chất lượng học tập, nghiên cứu của học viên; Cung cấp thông tin về đội ngũ giảng viên, giúp Ban Giám hiệu nhà trường xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên”.
Song, trong việc lấy ý kiến phản hồi đó cần nói rõ với học viên, việc giáo viên vận dụng đưa Nghị quyết vào bài giảng và nhận thức của học viên về các chuyên đề đó như thế nào? Từ đó có cơ sở đánh giá hiệu quả vận dụng nghị quyết vào bài giảng của giáo viên, cũng như đánh giá được chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị nói chung và giảng dạy môn xây dựng Đảng nói riêng.
Để có người trò giỏi có đủ kiến thức quay về cơ sở và áp dụng tốt vào trong thực tiễn thì không thể vắng bóng người thầy giỏi, giỏi cả về lý luận, vận dụng lý luận, vận dụng Nghị quyết và đưa vào áp dụng thực tiễn cuộc sống./.
ThS. Võ Châu Thảo - Trưởng khoa Xây dựng Đảng