Phát huy giá trị quyền dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc lập đối với sự nghiệp phát triển kinh tế tỉnh Bình Dương
1. Giá trị quyền dân tộc trong Bản Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945)
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa – Nhà nước dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á. Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện bất hủ, khẳng định một chân lý thiêng liêng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước Việt Nam XHCN.
Mở đầu Bản Tuyên ngôn Độc lập, Bác Hồ đã trích dẫn nội dung tinh túy nhất về quyền con người ghi trong Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người còn viện dẫn một triết lý mang tính nhân văn cao cả được ghi trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Cách mạng Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng và quyền lợi”. Theo Người, những lời bất hủ ấy “là những lẽ phải không ai chối cãi được” và suy rộng ra, “tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Việc trân trọng viện dẫn những tinh hoa của hai bản tuyên ngôn nói trên để mở đầu cho Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam không chỉ thể hiện cử chỉ ngoại giao rất tinh tế, sắc bén của chủ nhân một quốc gia vừa giành được độc lập mà còn là khát vọng thiêng liêng của toàn thể dân tộc Việt Nam, khẳng định và nâng các quyền cơ bản của con người lên thành quyền cơ bản của các dân tộc trên thế giới. Theo Bác Hồ, quyền con người và quyền dân tộc có mối quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người. Ngược lại, thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thực sự của độc lập dân tộc.
Năm tháng qua đi, nhưng bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn sống mãi trong lòng bao thế hệ người Việt Nam không chỉ bởi giá trị lịch sử, pháp lí mà còn bởi giá trị nhân văn về quyền con người và quyền dân tộc. Tư tưởng của Bác Hồ về quyền con người, quyền dân tộc thiêng liêng trong Tuyên ngôn Độc lập luôn được Đảng, Nhà nước ta thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn đất nước và phù hợp với luật pháp quốc tế về nhân quyền. Với hệ thống lập luận ngắn gọn, chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, chứa đựng những nội dung bất hủ, một cơ sở pháp lý vững chắc không chỉ có giá trị lịch sử, khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển.
Phát huy tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, đánh thắng các thế lực ngoại xâm, giành lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đưa dân tộc Việt Nam tiến lên phía trước, sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới theo đúng tâm nguyện của Bác Hồ kính yêu. Điều đó thể hiện sự nhạy bén của Đảng trong nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước; xây dựng CNXH đi đôi với bảo vệ Tổ quốc XHCN phù hợp với điều kiện thực tế của cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, chúng ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc, quán triệt và kiên định tinh thần cơ bản của Tuyên ngôn Độc lập, Đảng ta vẫn nhất quán khẳng định: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Đảng ta đã xác định: “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm” - một trong những điều kiện quan trọng để xây dựng đất nước, đất nước giàu mạnh sẽ là điều kiện tiên quyết để phát huy sức mạnh quốc gia trong bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
2. Phát huy giá trị của Bản Tuyên ngôn độc lập đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh Bình Dương
2.1. Chủ trương và quyết tâm phát triển kinh tế của tỉnh Bình Dương từ khi thực hiện đường lối đổi mới (1986 – đến nay)
Phát huy những giá trị của Bản Tuyên ngôn độc lập, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Sông Bé – Bình Dương đoàn kết vượt qua mọi khó khăn, thử thách khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh. Thực hiện đường lối đổi mới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bình Dương nỗ lực tập trung phát triển mạnh mẽ về kinh tế và đạt được những thành tựu to lớn. Có được những kết quả đó là sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân trong tỉnh.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ IV (11/1986) là Đại hội mở đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu quyết định tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Là Đại hội đổi mới cách suy nghĩ, cách làm; đổi mới tư duy kinh tế; giải phóng cho kỳ được lực lượng sản xuất hiện có, khai thác và phát huy mọi tiềm năng của tỉnh để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, ổn định tình hình kinh tế, xã hội và cải thiện đời sống nhân dân…
Đại hội Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ V (12/1991) bước đầu mở cửa, hội nhập. Trên tinh thần tận dụng thuận lợi trên các mặt và thực hiện chủ trương về đổi mới, mở cửa, hội nhập về kinh tế theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội xác định: Ổn định và phát triển kinh tế, bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóa, vận hành thông suốt cơ chế quản lý mới. Riêng lĩnh vực phát triển kinh tế đối ngoại và thu hút đầu tư trong và ngoài nước…đề ra chính sách “Trải chiếu hoa mời gọi các nhà đầu tư”, cố gắng tạo ra không gian mở để nền kinh tế phát triển nhanh, từng bước trở thành địa phương phát triển kinh tế năng động và hội nhập kinh tế quốc tế, có kết quả nổi trội về thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh là một bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển đất nước.
Thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc hội về việc chia tách tỉnh, ngày 26/11/1996, Ban Thường vụ tỉnh Sông Bé ra Nghị quyết số 13/NQ-TU về việc chia tách tỉnh Sông Bé thành hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước. Ngày 1/1/1997 tỉnh Bình Dương chính thức được tái lập phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử và chủ trương chung của Đảng và Nhà nước trong phạm vi toàn quốc, đưa Bình Dương bước vào thời kỳ phát triển mới.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VI (12/1997) – Đại hội đầu tiên sau khi tái lập tỉnh đề ra mục tiêu chiến lược thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu “tăng trưởng kình tế ở mức độ cao, ổn định, tạo điều kiện tích cực cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề bức xúc của xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Riêng đối với sản xuất công nghiệp, Đại hội xác định:“Bình Dương sẽ đa dạng hóa sản xuất công nghiệp, hình thành nhiều ngành công nghiệp tập trung thu hút, phát huy các nguồn lựcđầu tư cho phát triển công nghiệp, phấn đấu đưa công nghiệp trở thành ngành kinh tế trọng yếu của tỉnh”.
Đến Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VII (01/2001), tiếp tục đề ra mục tiêu chiến lược giai đoạn (2001-2010) là: “Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, hội nhập kinh tế vùng và khu vực, biến tiềm năng thành lợi thế so sánh để thu hút đầu tư, chú trọng phát triển công nghiệp hiện đại, tiên tiến, sản xuất hàng hóa có sức cạnh tranh cao; giữ vững và nâng cao vai trò, vị trí của tỉnh trong công cuộc phát triển của vùng kinh tế động lực”.
Tiếp đó, Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VIII (11/2005) đề ra mục tiêu tổng quát của giai đoạn (2005-2010) nhằm “tạo ra bước đột phá mới nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống dân cư”, “tăng trưởng kinh tế với mức độ cao và bền vững gắn với phát triển văn hóa, xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh”. Đại hội nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế: “Phát huy và tập trung mọi điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp toàn diện; tạo bước đột phá trong phát triển dịch vụ theo hướng hiện đại, văn minh, hội nhập quốc tế; phát triển nông lâm nghiệp – nông thôn theo hướng bền vững; đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật; tài nguyên – môi trường; thu hút đầu tư; tài chính – tín dụng – tiền tệ”.
- Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ IX (2011) đã đề ra mục tiêu tổng quát (2010-2015): “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và toàn diện trên các lĩnh vực, tập trung phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng ưu tiên phát triển dịch vụ - công nghiệp gắn với quá trình đô thị hóa, đầu tư hợp lý để phát triển nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao, xây dựng nông thôn mới. Nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp, thực hiện tốt cải cách hành chính, tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư…”.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ X (2015) đề ra mục tiêu tổng quát (2016-2020) như sau: “Tập trung nâng cao chất lượng tăng trưởng, tăng quy mô nền kinh tế, đảm bảo phát triển bền vững và tăng trưởng hợp lý. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển dịch vụ - công nghiệp gắn với quá trình đô thị hóa, đầu tư phát triển nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội; nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của người đân. Đảm bảo trật tự an toàn xã hội…”.
2.2. Những chủ trương lớn của tỉnh Bình Dương về phát triển kinh tế
- Đặt trọng tâm vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá thành tựu phát triển của một quốc gia, một địa phương. Với mục tiêu đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc đặt trọng tâm vào tăng trưởng kinh tế là yêu cầu cấp thiết và cơ bản để đưa Bình Dương phát triển.
Hơn 20 năm qua (1997-2020), Bình Dương luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Tổng sản phẩm xã hội (GDP) trung bình giai đoạn 1997-2001 tăng bình quân 14%/năm, giai đoạn 2001-2005 tăng 15,3%/năm, giai đoạn 2006-2010 tăng 14%/năm, giai đoạn 2010-2015 tăng 13%/năm. Đến năm 2015, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh đạt 196.840 tỷ đồng, tăng 47,5 lần so với năm 1997. Từ khi tái lập đến nay, Bình Dương đã nỗ lực tăng trưởng kinh tế, chuyển từ một tỉnh chủ yếu là sản xuất nông nghiệp trở thành một tỉnh công nghiệp phát triển nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam.
Tăng trưởng nhanh về tổng sản phẩm xã hội kéo theo thu nhập bình quân theo đầu người luôn ở mức cao và ổn định. Từ 1997-2011, thu nhập bình quân theo đầu người luôn ở mức 10%/năm. Giai đoạn 1997-2000, thu nhập bình quân theo đầu người đạt 10 triệu đồng, đến giai đoạn 2001-2005 tăng lên 15,4 triệu đồng, giai đoạn 2005-2010 đạt 30,1 triệu đồng, giai đoạn 2010-2015 đạt 72,3 triệu đồng dự kiến GRDP bình quân đầu người đạt 155,7 triệu đồng vào năm 2020.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng mạnh mẽ. Vào thời điểm tái lập tỉnh, cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ theo tỷ trọng tương ứng là 50,4% - 22,8% - 26,8%, tỷ trọng ngành nông nghiệp còn khá cao, căn cứ vào tiềm năng và các điều kiện phát triển, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bình Dương xác định cơ cấu kinh tế của tỉnh phải là công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp. Sau hơn 3 năm chú trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đến năm 2000, cơ cấu kinh tế tỉnh đã có những chuyển dịch rõ nét, tỷ trọng các ngành công nghiệp tăng từ 50,5% lên 58,1%, nông nghiệp từ 22,8% xuống còn 16,7%. Đến năm 2010, cơ cấu kinh tế công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp đã định hình rõ nét với tỷ trọng là 63% - 32,6% - 4,4% vượt xa Nghị quyết đề ra. Năm 2015 cơ cấu kinh tế công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp với tỷ trọng là 60% - 37,3% - 2,7%. Cơ cấu kinh tế (GRDP) năm 2020 là công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp tương ứng đạt 66,53% - 22,78% - 2,51%.
Trong công nghiệp, giai đoạn 1997-2000, giá trị sản xuất tăng 32%/năm, giai đoạn 2001-2005 tăng trưởng bình quân 35%/năm, giai đoạn 2006-2010 là 20%/năm, giai đoạn 2010-2015 là 15%/năm. Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2019 tăng 9,86% so với cùng kỳ (năm 2016 chỉ số IIP tăng 9,2%; năm 2017 tăng 9,8%; năm 2018 tăng 9,79%). Sản phẩm công nghiệp ngày càng đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Các ngành công nghiệp tích cực chuyển dịch theo hướng hội nhập quốc tế. Hiện nay, sản phẩm công nghiệp của Bình Dương có mặt trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các khu công nghiệp không ngừng hoàn thiện, nâng cấp và mở rộng kết nối, đáp ứng yêu cầu thu hút đầu tư và góp phần phát triển kinh tế - xã hội khu vực. Đến nay, toàn tỉnh có 29 khu công nghiệp, diện tích 12.721 ha, tỷ lệ cho thuê đất đạt 84,4% và 12 cụm công nghiệp với tổng diện tích 789,91 ha, tỷ lệ cho thuê đất đạt 67,4%.
Trong nông nghiệp, tuy tỷ trọng cơ cấu kinh tế giảm nhưng sản xuất vẫn có mức tăng trưởng liên tục, giai đoạn 1997-2000, giá trị sản xuất tăng 5,5%/năm, giai đoạn 2001-2005 tăng trưởng bình quân 6,2%/năm, giai đoạn 2006-2010 là 4,7%/năm, giai đoạn 2011-2015 là 4%/năm. Năm 2019 ước tính tăng 3,99%.
Các ngành dịch vụ được mở rộng, tập trung phát triển nhanh các ngành dịch vụ chất lượng cao, có lợi thế, công nghệ và giá trị gia tăng cao, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và phát triển đô thị. Giai đoạn 1997-2000, giá trị sản xuất tăng 10%/năm, giai đoạn 2001-2005 tăng trưởng bình quân 15%/năm, giai đoạn 2006-2010 là 24,1%/năm, giai đoạn 2011-2015 là 19,5%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2019 ước đạt 227.805 tỷ đồng, tăng 19,2% so với cùng kỳ (năm 2016 tăng 16,7%, năm 2017 tăng 13,8%, năm 2018 tăng 18,1%).
- Tập trung đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ
Ngay khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng bộ tỉnh Bình Dương đã nhận thức rõ ràng kết cấu hạ tầng phát triển là điều kiện tiên quyết để mở ra khả năng thu hút vốn đầu tư. Kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại là điều kiện để phát triển các ngành kinh tế chủ chốt, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Giai đoạn 1997-2005, số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của tỉnh tăng 4,5 lần (từ 3.048 tỷ lên 13.450,8 tỷ); giai đoạn giai đoạn 2006-2010 tăng 1,8 lần (từ 15.521 tỷ lên 18.131 tỷ); giai đoạn 2011-2015 tăng 1,8 lần (từ 35.983 tỷ lên 65.188 tỷ). Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2019 ước đạt 114.669 tỷ đồng, tăng 15,8% so với cùng kỳ. Trong đó, vốn đầu tư xây dựng cơ bản luôn chiếm tỷ lệ trên 30%, chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, hạ tầng giao thông và hạ tầng đô thị.
Đối với hệ thống giao thông, hàng năm tỉnh đã dành lượng vốn lớn cho các công trình giao thông có quy mô lớn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội nhất là kết nối với các địa phương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nhất là với Thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay, Bình Dương có hệ thống giao thông đường bộ thuận tiện kết nối với các tỉnh thành Đông Nam bộ, Tây Nguyên và các địa phương khác như Quốc lộ 13, đường ĐT 741, đường ĐT 744, Quốc lộ 14, đường Mỹ Phước – Tân Vạn kết nối các khu công nghiệp của Bình Dương với Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu…Ngoài ra, tỉnh còn chú trọng các tuyến đường kết nối các khu công nghiệp đồng bộ, hiện đại. Các tuyến đường đô thị, các tuyến đường giao thông nông thôn được chú trọng thường xuyên. Giao thông thuận tiện là điều kiện hết sức cơ bản để Bình Dương phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội.
Trong quy hoạch phát triển đô thị, Bình Dương luôn chú trọng phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế của các địa phương phù hợp với quy hoạch chung của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Năm 2010, Tỉnh ủy Bình Dương đã xây dựng chương trình đột phá về phát triển đô thị Bình Dương đến năm 2020. Đến tháng 6/2012, Thành phố Thủ Dầu Một đã được công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh (theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 2/5/1012 của Chính phủ). Ngày 10/01/2020 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 857/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập Thành phố Dĩ An, thành phố Thuận An và các phường thuộc thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Phong trào xây dựng nông thôn mới được tỉnh đặc biệt chú trọng, đến cuối năm 2019, Bình Dương đã đạt mục tiêu đề ra 46/46 xã hoàn thành chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao, cơ sở hạ tầng từng bước được hoàn thiện. Trong giai đoạn tiếp theo, Bình Dương xác định xây dựng nông thôn toàn diện, đáp ứng các mục tiêu của phát triển bền vững ở tất cả các cấp.
- Phát huy và thu hút các nguồn lực trong nước và quốc tế
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư sản xuất, vận hành và duy trì nền kinh tế. Ngay từ khi lựa chọn định hướng phát triển kinh tế công nghiệp làm chủ đạo, Đảng bộ và chính quyền tỉnh thường xuyên quá triệt quan điểm phát huy nội lực, tranh thủ thu hút, tập trung nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển. Giai đoạn 1997-2000, vốn đầu tư phát triển của tỉnh đạt mức trung bình 5.000 tỷ đồng/năm. Đến giai đoạn 2000-2005, trung bình 9.000 tỷ đồng/năm; giai đoạn 2010-2015, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 263 tỷ đồng. Năm 2019 đã thu hút được 2.777 triệu USD (tính đến ngày 31/10/2019). Ngoài ra, tỉnh còn huy động nguồn vốn từ dân cư vào sản xuất, kinh doanh trên nhiều lĩnh vực kinh tế…
Sau hơn 30 năm cùng cả nước thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và sau hơn 20 năm tái lập tỉnh Bình Dương, Với chủ trương đặt trọng tâm phát triển kinh tế, đẩy nạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thu hút đầu tư…Bình Dương đã biến vũng đất thuần nông thành tỉnh công nghiệp, thuộc nhóm tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước trong sự nghiệp đổi mới. Là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, phát triển năng động, ở bên cạnh Thành phố Hồ Chí Minh – một trung tâm kinh tế hàng đầu của đất nước, Bình Dương đến nay đã cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp, có nhiều tiềm năng và thuận lợi lớn để tiếp tục phát triển, sớm trở thành đô thị văn minh, hiện đại.
3. Một số bài học kinh nghiệm
Một là, trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ tỉnh Bình Dương cần quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo các định hướng của Trung ương phù hợp điều kiện, tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, hệ thống cơ sở hạ tầng, đô thị. Quy hoạch phát triển của Bình Dương phải gắn kết chặt chẽ với phát triển chung của vùng, nhất là trong phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, phát triển các ngành, các lĩnh vực, bảo vệ môi trường, đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao tiềm năng khoa học, công nghệ. Đảng bộ cần nỗ lực phấn đấu và quyết tâm cao nhất để phát triển nhanh và bền vững, xây dựng Bình Dương thành đô thị văn minh, hiện đại.
Hai là, Đảng bộ tỉnh phải có sự thống nhất cao về nhận thức và sự nhất quán chủ trương và mục tiêu phát triển chỉ đạo, điều hành quyết liệt, sáng tạo của lãnh đạo tỉnh Bình Dương; đó là dám nghĩ, dám làm, làm có trách nhiệm và hiệu quả; trong điều hành chủ động xây dựng các chương trình nội dung xúc tiến, mời gọi đầu tư; sâu sát, luôn lắng nghe và kịp thời giải quyết tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai dự án đã tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Ba là, Đảng bộ tỉnh Bình Dương cần tập trung lãnh đạo thực hiện có hiệu quả các đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế để đổi mới căn bản mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh thu hút đầu tư có chọn lọc, ưu tiên phát triển công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, thân thiện với môi trường, tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm tỷ trọng gia công. Tập trung làm tốt công tác quy hoạch, phát triển các khu, cụm công nghiệp gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và nhất là bảo đảm tính phù hợp với quy hoạch phát triển vùng, nối kết thuận lợi với hạ tầng phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong quy hoạch hình thành một số khu công nghiệp chất lượng cao, đảm bảo có hệ thống hạ tầng hiện đại, tiêu chuẩn quốc tế đảm bảo cung cấp đầy đủ tiện ích phục vụ tạo điều kiện thu hút hiệu quả các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có quy mô lớn, công nghệ kỹ thuật cao vào địa bàn tỉnh. Phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nâng cao tỷ trọng dịch vụ trong GDP, nhất là các dịch vụ chất lượng cao, có lợi thế và giá trị gia tăng cao. Đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp, cơ cấu cây trồng, vật nuôi và ứng dụng công nghệ cao để nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Bốn là, Đảng bộ tỉnh cần lãnh đạo đồng bộ quá trình phát triển kinh tế đi đôi với phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao mức sống của nhân dân, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo toàn diện; phát triển mạnh khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ cao trong các lĩnh vực sản xuất. Chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng nhiều hình thức, phương thức để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế như: các trung tâm, hệ thống các trường đào tạo; các doanh nghiệp ký hợp đồng đào tạo và tự đào tạo…đó là nguồn nhân lực có chất lượng thiết thực phục vụ cho sự phát triển của doanh nghiệp và phát triển công nghiệp dịch vụ của tỉnh. Làm tốt công tác bảo vệ môi trường.
Năm là, Đảng bộ cần chú trọng quan tâm đến quyền lợi hợp pháp và chính đáng của nhân dân, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức tạo sự đồng thuận của nhân dân, nhất là nhân dân trong vùng dự án, chủ trương nhất quán của tỉnh là phải đền bù, giải tỏa sát với giá thị trường, quan tâm đầu tư xây dựng hạ tầng các khu tái định cư tạo điều kiện tốt nhất để nhân dân tái hòa nhập và tham gia lao động trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, sinh sống theo nếp sống đô thị, văn minh trong các khu dân cư đô thị mới với nhiều tiện ích phục vụ ngày càng tốt hơn. Tập trung nguồn lực đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ thuật khá đồng bộ và hiện đại sẵn sàng để tiếp nhận các nhà đầu tư trong thời gian tới.
Sáu là, phải thống nhất quan điểm quy hoạch phát triển của tỉnh, mang tính phù hợp và kết nối kinh tế với vùng, ngành để phát triển; phát triển công nghiệp gắn với phát triển dịch vụ và đô thị, 3 mục tiêu này luôn hỗ trợ và tác động thúc đẩy cùng nhau đi lên theo hướng công nghiệp – dịch vụ - đô thị. Thực hiện cơ chế huy động, khai thác hiệu quả nhiều nguồn lực: từ nhà nước, các doanh nghiệp trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài, quỹ đất…để tạo thành sức mạnh đầu tư phát triển nhanh hệ thống hạ tầng kỹ thuật của tỉnh tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
Bảy là, Đảng bộ tỉnh cần có biện pháp kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư; Xây dựng nội dung chương trình và phương thức phối hợp xúc tiến, mời gọi đầu tư như: Nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp, các chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, các đại sứ quán, tham tán thương mại của Việt Nam ở nước ngoài cùng tổ chức các hội thảo mời gọi đầu tư. Trong quy hoạch đầu tư phát triển hạ tầng các khu công nghiệp cần lựa chọn một số doanh nghiệp chủ lực của địa phương có năng lực, uy tín, kinh nghiệm…để giao làm chủ đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Đó là tiền đề có tính quyết định trong việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước, theo định hướng của tỉnh đề ra.
Tám là, Đảng bộ tỉnh cần lãnh đạo nhân dân trong tỉnh tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh, nhất là lực lượng tự vệ ở các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp. Nâng cao chất lượng công tác nắm, dự báo, xử lý tình hình, không để bị động, bất ngờ. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
5. Đảng bộ tỉnh Bình Dương, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010-2015.
6. Đảng bộ tỉnh Bình Dương, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020.
7. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011.
ThS. Nguyễn Thị Thủy – Phó Trưởng khoa Xây dựng Đảng