Thực hiện di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết trong Đảng
Tóm tắt:
“ Hồ Chủ Tịch đã qua đời! Nhưng Người đã để lại cho chúng ta một di sản vô cùng quý báu. Đó là thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Toàn thể dân tộc Việt Nam ta mãi mãi ghi lòng tạc dạ công ơn trời biển của Người…”. Đó là lời trong bài Điếu văn được đồng chí Lê Duẩn đọc tại buổi Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9-9-1969, ở Thủ đô Hà Nội. Tri ân Người, trong bài viết này tác giả khái quát về bản Di chúc nói về Đảng, trong đó tập trung phân tích yếu tố “đoàn kết trong Đảng”; Thực tiễn về đoàn kết hiện nay và đề ra những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường đoàn kết trong Đảng hướng đến xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Từ khóa: Đoàn kết, Di chúc về đoàn kết
1. Bản Di chúc lịch sử:
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là kết tinh trí tuệ, bản lĩnh và khí phách Việt Nam được nâng tầm vóc trong thời đại mới. Người đã có công lao to lớn sáng lập và rèn luyện đảng ta, sáng lập ra nhà nước ta, ra Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và là người cha thân yêu của các vũ trang. Với những đóng góp vượt thời đại cho dân tộc và cho nhân loại, UNESCO đã tôn vinh người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất với nhận định: Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội… Sự đóng góp về nhiều mặt của chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của Nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.
Bằng thiên tài trí tuệ và bản lĩnh cách mạng của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công hệ quan điểm cách mạng toàn diện, hệ thống và sáng tạo để truyền bá vào Việt Nam, sáng lập đảng Cộng sản Việt Nam, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do.
Tuy cuối đời tuổi cao, sức khỏe có giảm chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt, vẫn cố gắng làm việc, vẫn cùng Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo Nhân dân ta đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mừng xuân năm 1969, chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc mừng đồng bào và chiến sỹ cả nước. Trong thư có viết:
“Năm qua thắng lợi vẻ vang,
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào.
Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào,
Bắc - Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!”
Đặc biệt trước lúc đi xa, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bản Di chúc mà Người bắt đầu viết ngày 10 -5-1965, khi còn rất minh mẫn. Vào dịp sinh nhật các năm 1966, 1967, 1968 và 1969, Người đều dành thời gian để xem lại, sữa chữa và bổ sung vào bản Di chúc.
Năm 1966, Người bổ sung thêm một câu vào phần nói về Đảng: “ Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Năm 1968, Người bổ sung thêm 6 trang viết tay, gồm một số đoạn nói về việc riêng, về một số công việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi.
Ngày 10-5-1969, Người xem và viết lại toàn bộ phần mở đầu Di chúc, gồm 1 trang viết tay, bản Di chúc thiêng liêng được hoàn tất và đi vào lịch sử từ đây.
Di chúc của Bác là những lời căn dặn tâm huyết cuối cùng đối với Đảng ta và Nhân dân ta. Mở đầu bản di chúc Bác viết: “ Cuộc chống Mỹ cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắc chắn”
Sau đó là những lời dặn của Người đối với Đảng: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và cán bộ phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thận sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Đối với đoàn viên và thanh niên: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Về phong trào cộng sản thế giới, Người mong rằng: “ Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các Đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.
Di chúc là một văn kiện lịch sử vô giá kết tinh trong đó cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân hiếm có đã suốt đời phần đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại.
Di chúc còn là phản ánh một tâm hồn, đạo đức cao cả và tình yêu bao la của Người đối với Nhân dân ta và bạn bè quốc tế, của một con người mà: “Suốt đời Tôi hết sức hết lòng phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, Tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Và điều mong muốn cuối cùng của Người là: “ Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Trong Di chúc, Người nhấn mạnh đến các yếu tố chính trị, tinh thần đã góp phần mang lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam và trọng tâm là “đoàn kết nhất trí của Đảng”. Để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng, phải “thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình… Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Hồ Chí Minh hơn 60 năm, từ buổi thiếu niên cho đến phút cuối cùng, Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Dù đã đi xa nhưng tư tưởng, đường lối chỉ đạo cùng với tình thương yêu bao la, sự quan tâm của Người đã luôn luôn là nguồn ánh sáng dẫn đường, cỗ vũ, động viên Nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
2. Thực hiện Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết trong Đảng
Đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề chiến lược, nhiệm vụ hàng đầu, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Đoàn kết các lực lượng cách mạng và tiến bộ để đạt mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đoàn kết là yêu cầu khách quan của cách mạng, chân lý của thời đại. Trong Di chúc Người viết: “Trước hết nói về Đảng - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ Nhân dân phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu và của dân ta. Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Người rất quan tâm đến đoàn kết cả lý luận và thực tiễn. Về lý luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về đoàn kết. Về thực tiễn Người quyết tâm xây dựng tổ chức mặt trận dân tộc thống nhất. Đó là khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc, tạo ra sức mạnh vô địch vượt qua mọi thử thách, khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù. Người đã nêu lên luận điểm nổi tiếng:
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Đoàn kết trong Di sản Hồ Chí Minh cho thấy phạm trù rộng, từ lực lượng đến địa bàn, từ trong ra ngoài Đảng, dân tộc đến quốc tế. Vì vậy ý nghĩa của đoàn kết không chỉ trong phạm vi dân tộc mà nó là một chân lý của thời đại.
Đó là sự vận dụng và phát triển sáng tạo khẩu hiệu của C. Mác: “Giai cấp vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”, và khẩu hiệu của V.I.Lênin: “ Giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”
Đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đoàn kết trong Đảng là then chốt. Chỉ có đoàn kết trong Đảng tốt thì mới đại đoàn kết được dân tộc. Có đoàn kết được dân tộc thì mới đoàn kết được quốc tế. Ngược lại, đoàn kết quốc tế có hiệu quả lại tăng thêm sức mạnh dân tộc. Đại đoàn kết được củng cố sẽ tăng cường sức chiến đấu cho Đảng, tạo thành bức tường thành vững chắc nhất bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
Về lực lượng đoàn kết, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ai có tài, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và Nhân dân thì ta đoàn kết họ. Đoàn kết với các Đảng phái, đoàn thể, nhân sĩ; các dân tộc anh em; đồng bào lương, giáo.. Nhân dân là một cộng đồng dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp. Vì vậy muốn đoàn kết thì phải có lòng khoan dung, độ lượng. Phải hiểu rằng “năm ngón tay có ngón dài, ngón vắn, nhưng dài hay vắn đều ở trên một bàn tay”. Phải xóa bỏ mọi thành kiến, thật thà đoàn kết trên cơ sở thống nhất về mục đích, lập trường; gắn đoàn kết với đấu tranh, tự phê bình và phê bình.
Đoàn kết phải được thực hiện bằng tổ chức mới có sức mạnh thật sự. Tổ chức quan trọng nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy giai cấp công nhân và giai cấp nông dân làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tổ chức đó có vai trò bảo dảm đoàn kết có tổ chức, có định hướng, là chiến lược của cách mạng, xây dựng Mặt trận phải bảo đảm nguyên tắc về hiệp thương dân chủ và lợi ích. Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, rộng rãi, vững chắc, thật sự, chân thành, thân ái.
Thấm nhuần lời dạy của Bác, trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới đúng quy luật, đầy sáng tạo, hợp lòng dân do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, phát huy truyền thống đoàn kết yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, Nhân dân ta đã vượt qua biết bao khó khăn, thách thức, đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển và bước vào hàng ngũ những nước có thu nhập trung bình; đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường; Độc lập, chủ quyền quốc gia, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên gấp nhiều lần, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thành tựu lớn nhất đó là đất nước ta đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, đã phá được thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch mà hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế của nước ta không ngừng được mở rộng, vị thế và uy tín quốc tế của nước ta chưa khi nào cao như hiện nay.
Trong những kết quả đó, yếu tố "đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để phát triển đất nước”, đồng thời là những tiền đề hết sức quan trọng để tăng cường sự đồng thuận và ổn định xã hội, để không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi để các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc tiếp tục đi vào cuộc sống.
Từ sau Đại hội VI của Đảng – Đại hội mở đầu cho công cuộc đổi mới đất nước, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và thấm nhuần bài học "lấy dân làm gốc”, Đảng ta đã quan tâm nhiều đến việc củng cố, tăng cường mối quan hệ truyền thống và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân và sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là vấn đề sống còn của Đảng, của chế độ trong điều kiện mới.
Triển khai Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng đề ra và các Nghị quyết của các kỳ Đại hội tiếp theo, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng về đại đoàn kết dân tộc, như: Nghị quyết 22 ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị (khóa VI), "Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi”; Nghị quyết 24 năm 1996 của Bộ Chính trị (khóa VI) "Về công tác tôn giáo”; Nghị quyết 25 ngày 9-2-1991 "Về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên”; Nghị quyết 8B ngày 27-3-1990 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) "Về đổi mới công tác vận động Nhân dân, củng cố mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân”; Nghị quyết 04 ngày 12-7-1993 của Bộ Chính trị "Về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Nghị quyết 07 ngày 17-11-1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) "Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất”; Ngày 13-1-2003 Ban Chấp hành TƯ (khóa IX) đã ra các Nghị quyết "Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, "Về công tác dân tộc”, "Về công tác tôn giáo” và Bộ Chính trị ra Nghị quyết 36 "Về người Việt Nam ở nước ngoài” cùng nhiều Chỉ thị, Kết luận quan trọng khác. Và gần đây nhất, ngày 12-12-2013 Bộ Chính trị (khóa XI) ban hành Quyết định số 217 "về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Quyết định số 218 "Về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”.
Những Nghị quyết nêu trên đã từng bước được thể chế hóa thành luật, pháp lệnh, chính sách và ngày càng thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Ðại hội XII của Ðảng đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc.
Từ khi Di chúc ra đời, truyền thống phát huy khối đại đoàn kết trong Đảng, toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh..
Cùng với những chuyển biến và tiến bộ nêu trên, nhiều vấn đề mới đã và đang nảy sinh trong quá trình đổi mới. Đó là xã hội, giai cấp, tầng lớp, nhóm dân cư vẫn đang trong quá trình phân hóa.
Giai cấp công nhân phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về ngành nghề với hơn hai phần ba đang làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, một bộ phận đang gặp khó khăn vì những năm gần đây không có việc làm, không có chỗ ở, thu nhập thấp, đối với nữ có gia đình không có nhà gửi trẻ, trường học.
Giai cấp nông dân – lực lượng đông đảo nhất vẫn đang trong quá trình chuyển hóa nhanh chóng. Đời sống đại bộ phận nông dân được cải thiện rõ rệt, song mặt khác cũng cho thấy tuyệt đại bộ phận hộ nghèo là nông dân, đặc biệt là nông dân vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc.
Đội ngũ trí thức phát triển nhanh về số lượng và đa dạng về ngành nghề song đang hẫng hụt nghiêm trọng về trí thức đầu đàn, nhất là những ngành mũi nhọn.
Với sự tác động của nền kinh tế nhiều thành phần đã hình thành nhanh chóng và đông đảo đội ngũ dân doanh. Lớp doanh nhân này có vai trò ngày càng lớn trong sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và góp phần ngày càng có ý nghĩa vào tổng thu nhập quốc dân. Song cũng đã xuất hiện những doanh nhân "ma”, doanh nhân làm ăn bất chính như: lừa đảo, chụp dật, lậu thuế, trốn thuế v.v…
Trong Đảng, một số cán bộ, đảng viên rơi vào tình trạng bảo thủ, trì trệ, tụt hậu, đổi mới vô nguyên tắc; cố tình làm biến dạng đường lối chính trị hoặc cố tình nhân danh đổi mới, sáng tạo một cách vô nguyên tắc, cố tình làm sai lạc việc hoạch định. Không ít nơi, nguyên tắc tập trung dân chủ bị lợi dụng trương lên thành tấm bình phong để che đậy mưu đồ cá nhân và hành động phá rối tổ chức hoặc vô hiệu hóa tổ chức. Một số người biến việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình thành cái gọi là “vũ khí” rất màu nhiệm để tân bốc, tán dương nhau nhưng lại mưu đồ vu vạ, hãm hại đồng chí, hạ gục những người không phe cánh với họ. Nguy cơ một bộ phận không nhỏ, cán bộ, đảng viên suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, băng hoại về phẩm chất lối sống.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã nhận định: công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, thậm chí “những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng”.
Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã và đang tiếp tục khai thác những thiếu sót, yếu kém của ta hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định xã hội, mất đoàn kết nội bộ tổ chức Đảng .
Những nguy cơ thách thức nêu trên, nếu không chữa trị kịp thời và hiệu quả, chúng sẽ biến thành những khối u ác tính trong cơ thể Đảng. Điều nguy hại nhất là nếu để tích tụ đến mức nào đó, chúng có thể gây nên sự tan rã ngay từ trong nội bộ. Đó chính là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” rất nguy hiểm, cần được ngăn chặn và tẩy trừ.
Do vậy, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta cần tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết nhân nghĩa, khoan dung của tổ tiên, cùng nhau phấn đấu xây dựng cho được một xã hội đồng thuận cao trên tinh thần cởi mở, độ lượng, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định và phát triển nhanh và toàn diện đất nước trong thời gian tới.
Đảng ta muốn đoàn kết được dân tộc, trước hết phải thấm nhuần quan điểm “Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc”. Là lãnh đạo, Đảng phải xứng đáng là đạo đức, là văn minh. Đảng phải tỏ rõ là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất, chân thực nhất, chỉ có như vậy thì Nhân dân mới thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đảng cần đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 05 - CT/TW của Bộ Chính trị về Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân cùng với Ðảng, Nhà nước phát triển kinh tế - xã hội; hợp tác và hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế, tham gia tích cực cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Nâng cao chất lượng cuộc vận động: “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; “Ngày vì người nghèo”; “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, qua đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta phải thấu suốt và quán triệt sâu sắc những bài học về đoàn kết và dân chủ đã được khẳng định trong thực tiễn. Đảng cần tăng cường và kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội. Tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, đặc biệt là thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách để ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân, thu nhập của người dân không ngừng được cải thiện.
Vì vậy, để ngăn ngừa tình trạng phân ly, cục bộ, mất đoàn kết thống nhất, Đảng cần phải: (1) Tăng cường rà soát, xử lý hệ thống tổ chức Đảng và toàn thể đội ngũ đảng viên là khâu đột phá có tính quyết định thành công. (2) Tiếp tục chỉnh đốn tổ chức bộ máy; sửa đổi, hoàn thiện cơ chế vận hành bộ máy và phương thức lãnh đạo của Đảng một cách hữu hiệu. (3) Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên. (4) Dân chủ hóa việc thực hiện kỷ cương, siết chặt kỷ luật của Đảng, thực hiện nghiêm pháp luật của Nhà nước. (5) Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; bổ sung lực lượng mới và làm trong sạch đội ngũ đảng viên, trước hết và tập trung là đội ngũ đảng viên làm công tác lãnh đạo, quản lý các cấp.
Tóm lại, với những giá trị to lớn, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là những lời căn dặn chí tình, chí nghĩa, là ánh sáng chỉ đường và là sức mạnh thôi thúc hành động không chỉ đối với Đảng ta, mà đối với tất cả những ai muốn “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”, muốn đi theo lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại./.
ThS. Võ Châu Thảo - Trưởng khoa Xây dựng Đảng
Tài liệu tham khảo:
1. Bảo tàng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh tiểu sử, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà nội, năm 2015.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, NXB.Chính trị quốc gia, Hà nội, năm 2012.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, NXB.Chính trị quốc gia, Hà nội, năm 2012.Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, NXB. Chính trị quốc gia, Hà nội, năm 2002.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà nội, năm 2016.
5. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Xây Dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước: Giới thiệu tác phẩm của của C. Mác – Ph. Ănghen- V.I Lênin, Hồ Chí Minh về Xây dựng đảng và chính quyền Nhà nước- Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh (công bố năm 1969), NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, năm 1999.
Hồ Chí Minh:Toàn tập, tập 12, NXB. Chính trị quốc gia, H, 2002, tr 426