Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập - Nhìn từ thực tế ở tỉnh Bình Dương
Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc ngày 02/9/1945 khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là một văn kiện lịch sử, văn bản pháp lý ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều nội dung cốt lõi. Việc nghiên cứu Tuyên ngôn Độc lập không những có giá trị về mặt lý luận, lịch sử mà còn có ý nghĩa về thực tiễn và ý nghĩ thời đại rất to lớn. Nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày ra đời bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, tác giả đề cập đến tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người và việc thực hiện những quyền cơ bản đó ở tỉnh Bình Dương trong 05 năm qua nhằm góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay.
1. Tư tưởng về quyền con người trong Tuyên ngôn Độc lập
Bản Tuyên ngôn Độc lập có ý nghĩa thời đại sâu sắc, bởi tư tưởng về quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người dân và cả dân tộc Việt Nam được khẳng định, đồng thời nhân dân Việt Nam sẽ quyết đấu tranh để giành và giữ những quyền chính đáng đó.
Khi khẳng định về quyền con người là chính đáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”; “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Và vì thế, mỗi người dân Việt Nam và dân tộc Việt Nam đều có những quyền chính đáng ấy; không ai có thể tước đoạt được…
Đó là những nguyên tắc cơ bản, là điều tất yếu khách quan và cũng là khát vọng, mục tiêu, lý tưởng mà mọi quốc gia dân tộc trên thế giới đều hướng đến và mọi hành vi xâm phạm đều là vi phạm luật pháp quốc tế, đi ngược với xu hướng phát triển của nhân loại tiến bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các quyền cơ bản của con người mà đáng lẽ ra nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam đương nhiên được hưởng nhưng bị các thế lực ngoại xâm, đặc biệt là thực dân Pháp đã tước đoạt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà, để ngăn cản dân ta đoàn kết. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn, đề làm cho nòi giống ta suy nhược...
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”.
Không chỉ dừng ở đó, mùa thu năm 1940, khi phát xít Nhật đến Đông Dương, thực dân Pháp lại quỳ gối đầu hàng và “thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật, khiến cho nhân dân ta càng thêm cực khổ, khiến cho “hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”.
Từ những nội dung trên cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thông qua việc tố cáo thực dân để khẳng định quyền con người, đồng thời mặc dù Người đề cập đến lĩnh vực chính trị và kinh tế, song trong những nội dung trên đã bao hàm cả các quyền về dân sự, văn hoá và xã hội.
Như vậy có thể khái quát nội dung quyền con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập gồm có:
Quyền dân sự, chính trị: phải xây dựng nhà nước kiểu mới, nhà nước pháp quyền, hợp hiến, của dân, do dân, vì dân là nhân tố quan trọng đề bảo đảm quyền con người, hệ thống pháp luật dân chủ, chính quyền nhà nước là để phục vụ nhân dân chứ không phải để cai trị; đảm bảo thực hiện dân chủ rộng rãi, dân là chủ và dân làm chủ, không chấp nhận đặc quyền, đặc lợi; đảm bảo các quyền tự do ngôn luận, hội họp, đi lại; quyền tự do cá nhân đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm; kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc và quyền con người của nhân dân ta, đồng thời tôn trọng chủ quyền quốc gia và quyền con người của dân tộc khác.
Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa: Quyền sở hữu và sử dụng tư liệu sản xuất, tài sản; quyền lao động, quyền thành lập công ty, doanh nghiệp, quyền tự do sản xuất kinh doanh, xoá bỏ độc quyền; xây dựng nền giáo dục quốc dân, chống nạn mù chữ, nâng cao dân trí; xây dựng hạ tầng văn hoá, xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu ngày cao của nhân dân, kiến thiết đời sống văn hóa mới, v.v... ; và những vấn đề liên quan đến việc thụ hưởng quyền, như sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ, quyền với điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa…
Tóm lại, theo Hồ Chí Minh, quyền con người là những nguyên tắc vốn có và chỉ có ở con người, phải đặt con người ở vị trí trung tâm, tất cả phải vì con người và do con người, quyền đó được thể chế hóa trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế, nhằm góp phần thúc đẩy và bảo vệ quyền sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc của con người và dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở các quyền trên đây, ở các quốc gia khác nhau cũng như các địa phương trong một quốc gia tùy theo điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của mình mà hiện thực hóa, cụ thể hóa cho phù hợp với thực tế cuộc sống.
2. Những thành tựu về thực hiện quyền con người ở tỉnh Bình Dương giai đoạn 2015-2020
Ở Việt Nam, thực hiện tư tưởng của Người, Đảng và Nhà nước ta không ngừng hiện thực hoá quyền con người trong thực tế cuộc sống phù hợp với từng thời kỳ lịch sử ngày càng sinh động, thiết thực và hiệu quả. Nhất là trong gần 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng – an ninh.
Đối với tỉnh Bình Dương, sau hơn 20 năm tái lập, nhất là trong 05 năm qua thực hiện mục tiêu tổng quát của nhiệm kỳ 2015 – 2020 là “xây dựng Bình Dương trở thành đô thị loại I, với mục tiêu nâng cao mức sống vật chất, tinh thần cho người dân; tiến tới đô thị văn minh, giàu đẹp”; phát triển đúng định hướng, kinh tế, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng lên; đồng thời đảm bảo mọi người dân đều được hưởng thụ một cách đầy đủ nhất, thực chất nhất từ những thành quả phát triển của tỉnh mang lại. Từ đó góp phần quan trọng vào việc thực hiện quyền con người ngày càng tốt hơn. Điều này được thể hiện trong các nội dung cụ thể sau đây:
Thứ nhất, về việc thực hiện quyền dân sự, chính trị
Một là, Xây dựng hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân và phuc vụ nhân dân ngày càng tốt hơn
Hệ thống các tổ chức của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội từng bước được đổi mới; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tình hình dân chủ trong Đảng tiếp tục được mở rộng, công tác tự phê bình và phê bình có nhiều chuyển biến tích cực. Có nhiều đổi mới trong công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ; công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tiếp tục được quan tâm. Trong 05 năm qua, riêng Trường Chính trị tỉnh đã tổ chức khai giảng 86 lớp với 6.596 học viên; bế giảng, cấp bằng tốt nghiệp cho 96 lớp, với 7.680 học viên; Các Trung tâm chính trị huyện, thị, thành phố và các đảng ủy trực thuộc đã mở 1.964 lớp, với 303.025 học viên.
Xây dựng Đảng về đạo đức được chú trọng đặc biệt, coi trọng trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý; tăng cường rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng trong cán bộ, đảng viên. Qua 4 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, các cấp ủy trực thuộc Tỉnh ủy đã biểu dương, khen thưởng cho 820 tập thể, 1856 cá nhân; cấp tỉnh: 49 tập thể, 117 cá nhân trong “Học tập và làm theo Bác”…
Việc sắp xếp tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở được triển khai nghiêm túc theo hướng từng bước tinh gọn, giảm đầu mối gắn với tinh giản biên chế. Tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên; công tác cải cách hành chính đạt nhiều kết quả tích cực, nhất là cải cách thủ tục hành chính. Công tác cải cách tư pháp được nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác.
Chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng được nâng lên, thực hiện tốt chức năng quyết định, giám sát và đại diện; phản ánh kịp thời những nguyện vọng, kiến nghị của cử tri địa phương đến cơ quan chức năng; tích cực theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải quyết và thông tin kết quả giải quyết đến cử tri.
Tổ chức, bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước từng bước được kiện toàn, sắp xếp theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đến nay, tỉnh đã giảm được 37 phòng, 4 chi cục và 17 đơn vị sự nghiệp thuộc cấp Sở.
Công tác cải cách hành chính đạt nhiều kết quả tích cực; các cấp, các ngành đã triển khai đồng bộ các nhiệm vụ trọng tâm theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, chuyên nghiệp. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được hoàn thiện, đảm bảo tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông được triển khai toàn diện, cơ bản đồng bộ ở cả 03 cấp chính quyền; cơ sở vật chất, trang thiết bị bộ phận một cửa được đầu tư khang trang, hiện đại, đáp ứng yêu cầu công tác và tạo thuận lợi cho người dân, tổ chức đến giao dịch.
Hai là, Công tác đối thoại với người dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng quy định của pháp luật
Công tác đối thoại với người dân đã được các cấp chính quyền, các ngành quan tâm, thực hiện đúng theo quy định Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo khi xem xét, giải quyết các vụ việc. Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo quy định. Tập trung giải quyết các vụ việc phức tạp kéo dài; công tác thanh tra được tăng cường, phát hiện được nhiều vi phạm, thu hồi về cho nhà nước nhiều tỷ đồng; kiểm tra, rà soát những vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài, giải quyết hợp lý, hợp tình những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của công dân. Cụ thể:
- Công tác tiếp công dân: Tính đến hết năm 2019: Lãnh đạo cấp ủy các cấp tiếp được 580 cuộc với 2.263 lượt người; lãnh đạo chính quyền các cấp tiếp được 6.239 lượt với 10.468 người. Sau các buổi tiếp công dân đều ban hành thông báo kết luận, chỉ đạo giải quyết. Ngoài ra, kết quả công tác tiếp dân thường xuyên cũng ghi nhận có 8.179 lượt với 7.487 người được tiếp.
- Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của UBND, cơ quan sở, ngành các cấp:
+ Số lượng đơn thư tiếp nhận trong kỳ báo cáo là 12.711 đơn thư các loại; trong đó đơn đủ điều kiện thụ lý, thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh và cấp huyện là 8.369 đơn, gồm có: 1.188 đơn khiếu nại, 216 đơn tố cáo và 6.965 đơn kiến nghị phản ánh.
+ Kết quả giải quyết: Đã giải quyết 8.344 đơn, đạt tỷ lệ trên 95%. Cụ thể: Tổng số đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền các cấp là 1.188 đơn, đã giải quyết 1.166 đơn, đạt tỷ lệ 98%. Tổng số đơn tố cáo thuộc thẩm quyền các cấp là 216 đơn, đã giải quyết 213 đơn, đạt tỷ lệ 98,6%. Tổng số đơn kiến nghị, phản ánh là 6.965 đơn, đã giải quyết 6.965 đơn, đạt tỷ lệ 100%.
Thứ hai, Việc thực hiện các quyền về kinh tế, văn hoá, xã hội. Đây là những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống dân sinh nên được tỉnh đặc biệt quan tâm thực hiện và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Một là, thực hiện quyền tự do sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập…
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng bình quân 9,35%/năm, GRDP bình quân đầu người đạt 155,7 triệu đồng vào năm 2020.
Tỉnh luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển. Từ đầu nhiệm kỳ đến 30/6/2020, tỉnh đã có 25.801 doanh nghiệp đăng ký mới và 4.558 doanh nghiệp bổ sung vốn.
Tỷ lệ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân đạt 99,8%.
Tín dụng chính sách xã hội được nâng lên về chất lượng và số lượng, tạo điều kiện cho người nghèo và các đối tượng chích sách dễ dàng tiếp cận nguồn vốn, góp phần hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi, tín dụng đen.
Hai là, phát triển văn hóa, thể thao đáp ứng nhu cầu của người dân
Tỉnh đã huy động nhiều nguồn lực đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, phúc lợi công cộng phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tinh thần cho người dân. Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 121 công trình hoa viên, công viên phục vụ vui chơi, giải trí sinh hoạt thể dục, thể thao cho người dân.
Công tác bảo vệ, tu bổ và phát huy các giá trị của di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng được thực hiện đúng quy định, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, nhất là cho thế hệ trẻ. Đến nay, toàn tỉnh có 60 di tích đã được xếp hạng, 02 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Các thiết chế văn hoá, thể thao tiếp tục được đầu tư, nâng cấp bằng nguồn ngân sách nhà nước và xã hội hóa.
Ba là, thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, giải quyết việc làm
Đến nay 100% gia đình người có công cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cộng đồng và được theo dõi sức khỏe định kỳ.
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tiếp tục được triển khai đồng bộ, đổi mới về phương thức, giải pháp thực hiện theo hướng thực chất, bền vững. Toàn tỉnh đã giảm 4.566 hộ nghèo theo tiêu chí của tỉnh, không có hộ tái nghèo. Đến cuối năm 2019 còn 3.806 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 1,31%; trong đó, hộ nghèo thuộc chỉ tiêu giảm nghèo là 1.893 hộ, chiếm tỷ lệ 0,65%, hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã hội là 1.913 hộ, chiếm tỷ lệ 0,66% và 2.899 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 1%. Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh đến cuối năm 2020 đạt dưới 1%.
Chương trình phát triển nhà ở xã hội đã đầu tư được 85 dự án, đưa vào sử dụng 25 dự án với tổng diện tích sàn gần 500.000m2, diện tích nhà ở bình quân đạt 30m2/người; tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch đô thị đạt 100%.
Thực hiện hiệu quả chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Trung bình hàng năm, tỉnh giải quyết việc làm cho hơn 46.500 lao động.
Bốn là, Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng tốt hơn, xây dựng hệ thống hạ tầng y tế hiện đại
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, khám chữa bệnh của các cơ sở y tế cơ bản đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám, điều trị bệnh của người dân.
Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được thực hiện tốt. Tỷ lệ bác sĩ trên vạn dân đạt 7,5 bác sĩ; số giường bệnh/vạn dân đạt 21,3 (không tính tuyến xã); 100% trạm y tế xã có bác sĩ khám chữa bệnh; 100% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế; đến năm 2019, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc và tự nguyện đạt 88,1%.
Mạng lưới y tế cơ sở từng bước được củng cố, hoàn thiện; triển khai đầu tư xây dựng mới và nâng cấp, mở rộng nhiều cơ sở y tế cấp tỉnh. Trong 05 năm qua đã đưa vào khai thác 04 bệnh viện tư nhân và đưa vào sử dụng trên 1.700 giường bệnh mới. Đến nay, toàn tỉnh có 03 bệnh viện tuyến tỉnh, 09 trung tâm y tế tuyến huyện, 19 phòng khám đa khoa khu vực, 91 trạm y tế; 02 bệnh viện ngành; 14 bệnh viện tư nhân; 50 phòng khám đa khoa tư nhân; 20 trạm Y tế doanh nghiệp; 658 phòng khám chuyên khoa tư nhân và 2.585 cơ sở hành nghề dược.
Bệnh viện Đa khoa tỉnh 1.500 giường và đã nâng lên Bệnh viện hạng I, 02 cơ sở bệnh viện chuyên khoa, hiện nay đang tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật từ 04 Bệnh viện tuyến Trung ương theo Đề án Bệnh viện vệ tinh của Bộ Y tế.
Năm là, chất lượng giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ngày càng được nâng lên
Mặc dù áp lực dân số cơ học hàng năm tăng cao, nhưng với chủ trương tạo mọi điều kiện thuận lợi, bình đẳng và môi trường giáo dục chất lượng tỉnh đã triển khai thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Xây dựng thêm 92 công trình trường học, 80 cơ sở giáo dục ngoài công lập do doanh nghiệp đầu tư. Đến nay, toàn tỉnh có 669 trường học, tỷ lệ trường công lập đạt chuẩn quốc gia đạt 74,4%. Chất lượng dạy và học ở các cấp bậc học được nâng cao qua từng năm; duy trì, củng cố kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 05 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học cơ sở; tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông các năm luôn đạt cao; thực hiện tốt công tác hướng nghiệp.
Tập trung đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng; môi trường nghiên cứu sáng tạo, khởi nghiệp được chú trọng…
Từ những dữ liệu trên cho thấy, tỉnh Bình Dương đặc biệt quan tâm chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân với mục tiêu gắn tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng sống, phát triển văn hóa, xây dựng và phát triển con người. Các chủ trương và chính sách y tế, giáo dục, về nhà ở, giải quyết việc làm, văn hóa, thể dục, thể thao, du lịch,…được chú trọng, thường xuyên điều chỉnh theo hướng nâng cao cho phù hợp với từng giai đoạn cụ thể; huy động các nguồn lực để chăm lo cho các đối tượng khó khăn, yếu thế trong xã hội; tiếp tục giảm nghèo bền vững...
3. Một số vấn đề đặt ra
Bên cạnh những kết quả đạt được về các lĩnh vực như trên đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền của người dân, nhưng trong quá trình phát triển xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan, đã và đang đặt ra một số vấn đề cần phải có cách nhìn nhận thấu đáo để có giải pháp tốt hơn trong thời gian tới.
Một là, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị có nơi chưa thật tinh gọn. Triển khai thực hiện đề án vị trí việc làm, đề án “Sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” còn chậm và lúng túng. Trình độ, năng lực đội ngũ đảng viên và cán bộ, công chức, viên chức chưa đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực; tính chuyên nghiệp chưa cao theo yêu cầu của nền hành chính hiện đại. Công tác cải cách thủ tục hành chính chưa theo kịp với tốc độ phát triển chung.
Hai là, việc tổ chức thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng chưa cao; tình trạng nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa được ngăn chặn có hiệu quả; một số vụ việc khiếu nại dù đã được cơ quan chức năng giải quyết đúng quy định, đúng thẩm quyền nhưng các đối tượng vẫn tiếp tục khiếu kiện kéo dài, vượt cấp, cùng với đó là tình trạng một bộ phận người dân chưa thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình dẫn đến việc tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh trật tự.
Ba là, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân chưa đáp ứng yêu cầu; hệ thống y tế công lập còn khó khăn cả về cơ sở vật chất cũng như số lượng và chất lượng đội ngũ y, bác sỹ; tỷ lệ bác sĩ/vạn dân và số giường bệnh/vạn dân chưa theo kịp với mức tăng dân số cơ học.
Bốn là, việc đầu tư xây dựng các thiết chế văn hoá, thể thao còn chậm so với tiến độ đề ra; chưa hình thành công trình văn hóa mang tầm vóc lớn, mang đậm dấu ấn Bình Dương. Tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội có lúc, có nơi còn diễn biến phức tạp, tai nạn giao thông chưa được kiềm chế.
Tóm lại: Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện một cách sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người bao gồm quyền dân sự, chính trị, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Quyền này là bất khả xâm phạm đối với mỗi người dân và cả dân tộc Việt Nam. Đến nay các quyền này ngày càng được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tế, đồng thời nó phải được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Trong 75 năm qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân luôn ra sức hiện thực hoá các quyền trên theo tâm nguyện của Người với quyết tâm chính trị và sự đồng thuận cao nhất. Đó cũng là cách để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam một cách có hiệu quả.
Trong 05 năm qua, mặc dù còn một số hạn chế nhất định nhưng với sự nỗ lực, phấn đấu của mình, tỉnh Bình Dương đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, thông qua đó đã hiện thực hoá quyền con người, quyền công dân một cách thiết thực nhất và hiệu quả nhất. Trong thời gian tới với quyết tâm chính trị cao nhất của cả hệ thống chính trị bằng những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ cùng với sự đồng thuận của toàn xã hội, quyền con người ở tỉnh Bình Dương sẽ được thực hiện ngày càng thiết thực hơn và hiệu quả hơn, khi đó sẽ tạo nên động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần tiến tới xây dựng tỉnh Bình Dương thành đô thị văn minh, giàu đẹp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Dự thảo (Lần thứ ba) Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 – 2025;
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.1;
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính; Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội, Nxb.Lý luận chính trị, H.2017.
ThS. Tô Văn Sơn - Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh Bình Dương