Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và việc vận dụng để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trong tình hình hiện nay
TƯ TƯỞNG NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH VÀ VIỆC VẬN DỤNG ĐỂ BẢO VỆ VỮNG CHẮC ĐỘC LẬP DÂN TỘC TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
Ngoại giao theo phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh là thêm bạn, bớt thù, mềm dẻo nhưng kiên quyết, chân thành mà vẫn giữ vững lập trường,“dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “ngoại giao tâm công”, đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại. Trong tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp hiện nay, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh để góp phần bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình và ổn định để phát triển đất nước là hết sức quan trọng.
1. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
Tư tưởng ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh được hình thành bởi tình yêu quê hương, đất nước của Người, trên cơ sở thấm nhuần những giá trị truyền thống ngoại giao của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với tiếp biến các giá trị văn hóa, tư tưởng thế giới trên lĩnh vực ngoại giao và các bài học kinh nghiệm ngoại giao quốc tế qua các hoạt động thực tiễn.
Ngoại giao theo tư tưởng Hồ Chí Minh với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “ngoại giao tâm công”, thể hiện tinh thần nhân đạo, đối xử nhân văn, coi trọng hòa hiếu với các nước láng giềng nhưng luôn ý thức cao trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền và lãnh thổ thiêng liêng. Nội dung tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần quyết tâm cao trong đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền của quốc gia, đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tâm nguyện phải giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân, ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, Người luôn đấu tranh mạnh mẽ kêu gọi phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Tháng 8/1945 cuộc đấu tranh giành chính quyền của Việt Nam thắng lợi, trong Bản tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc vào ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn tuyên bố với toàn thể thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” . Thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định chính sách ngoại giao có tính chất dân tộc, dân chủ của Việt Nam và cho dù phương pháp có thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế thì nguyên tắc bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là không thay đổi. Bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc là mục tiêu “bất biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để làm được điều này, theo Người phải kết hợp hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, gắn liền với đoàn kết và hợp tác quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem ngoại giao là một mặt trận quan trọng, muốn thắng lợi cần phải chuẩn bị chu đáo, phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ mặt trận ngoại giao với chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn thực hiện tốt mặt trận ngoại giao cần phải đào tạo được những con người giỏi, xây dựng được chiến lược, sách lược ngoại giao phù hợp dựa trên phân tích khoa học tình hình thế giới, khu vực và trong nước. Khẳng định, ngoại giao của các nước nhỏ như Việt Nam phải khôn khéo, cố gắng cân bằng mối quan hệ giữa các nước lớn, tránh ngã hẳn về một nước lớn, hoặc để nước này lợi dụng chống lại nước khác và rơi vào vòng xoáy khó khăn không có lợi cho Việt Nam. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh luôn hướng đến hòa bình, chống chiến tranh, Người khẳng định: “chúng tôi là một dân tộc ưu hòa bình, trọng quyền lợi và tự do của người khác” trong đó đặc biệt cố gắng xây dựng mối quan hệ hòa bình hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, thường xuyên quan tâm đẩy mạnh mối quan hệ với các bạn bè truyền thống và các nước trong hệ thống XHCN. Theo Người, ngoài việc đẩy mạnh ngoại giao Nhà nước, cần phải đẩy mạnh đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân, mở rộng hợp tác với cả những nước có chế độ chính trị khác ta, đẩy mạnh hoạt động tại các diễn đàn quốc tế, nắm bắt thời cơ, tập hợp lực lượng, quyết tâm đấu tranh cho một thế giới hòa bình và bình đẳng giữa các dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao thấm đượm tính nhân văn, nhân đạo, trọng tình nghĩa, thể hiện sự tinh tế sâu sắc, giản dị, bao dung đã hình thành nên phương pháp, phong cách “ngoại giao tâm công” đánh vào lòng đối phương, thu phục lòng người bằng chính nghĩa, thuyết phục bằng đạo lý và lẽ phải. Ngoài ra “ngoại giao tâm công” còn được dùng trong binh vận “để làm nhụt nhuệ khí của địch, gây hoang mang trong hàng ngũ đối phương, kết hợp với thắng lợi trên chiến trường buộc địch phải nghị hòa và rút quân về nước” . Để thực hiện tốt “ngoại giao tâm công”, mỗi khi quyết định các vấn đề đối ngoại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều tìm hiểu kĩ, phân tích sâu sắc các yếu tố liên quan, các cá nhân, tổ chức cần tiếp xúc, kể cả những chi tiết nhỏ nhất để có được đối sách ngoại giao phù hợp, xây dựng ấn tượng tốt đẹp với đối phương, làm lay động lòng người, tạo hiệu ứng tích cực có lợi cho mục đích ngoại giao. Lịch sử cuộc đấu tranh giành chính quyền, bảo vệ chính quyền, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ chế độ XHCN đã chứng minh sự đúng đắn của nội dung, phong cách và phương pháp “ngoại giao tâm công” Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đường lối đối ngoại đúng đắn của Việt Nam đã giúp nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới hiểu được cuộc đấu tranh chính nghĩa, từ đó nhận được sự ủng hộ và cổ vũ to lớn, ngay cả nhân dân Pháp, Mỹ đã tổ chức những phong trào phản chiến rầm rộ để ủng hộ Việt Nam. Ngoại giao theo phong cách Hồ Chí Minh làm toát lên tinh thần yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam, việc quyết tâm đàm phán hòa bình với Pháp sau cách mạng tháng 8/1945 và đàm phán tại Hội nghị Giơnevơ (1954), đàm phán với Mỹ tại Hội nghị Pari (1968 - 1973) để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình đã khẳng định chắc chắn điều đó.
Thực hiện tốt tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, Việt Nam đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia, tập hợp được những lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam cố gắng cân bằng mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc khi hai nước này xảy ra bất hòa, giúp Việt Nam có thêm sức mạnh và sự ủng hộ cần thiết để hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thực sự là kim chỉ nam cho các hoạt động đối ngoại, là nhân tố quyết định góp phần đem đến những thắng lợi quan trọng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ chế độ XHCN.
2. Vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trong tình hiện nay
Độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc là vấn đề thiêng liêng của mỗi quốc gia, độc lập dân tộc thể hiện quyền tự quyết của quốc gia, không có sự phụ thuộc hoặc bị bất kỳ quốc gia nào chi phối, đảm bảo sự tự chủ, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Để bảo vệ được độc lập dân tộc, mỗi quốc gia phải phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong đó ngoại giao là mặt trận rất quan trọng. Lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, góp phần làm nên những thắng lợi to lớn của dân tộc Việt Nam.
Trong tình hình thế giới hiện nay, xu thế chính là hòa bình, hữu nghị, hợp tác, nhưng bên cạnh đó mâu thuẫn sắc tộc, dân tộc, nội chiến, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tranh chấp phạm vi ảnh hưởng giữa các nước lớn vẫn diễn biến hết sức phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố nguy hiểm, khó lường. Sự tác động bằng nhiều biện pháp của các nước lớn đối với các mối quan hệ quốc tế đang trở nên quyết liệt, gây nhiều khó khăn cho các nước nhỏ trong việc lựa chọn đường lối đối ngoại phù hợp, thậm chí gây nên những dấu hiệu rạn nứt giữa các quốc gia từng là đồng minh chiến lược, làm nảy sinh thái độ khác nhau khi đi đến những vấn đề thống nhất trong các tổ chức mà mình cùng tham gia. Bên cạnh đó, với sự phát triển như vũ bảo của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ tác động đến tất cả các nước làm cho các mối quan hệ quốc tế trở nên phức tạp, đan xen, chồng chéo, trong đó mối quan hệ giữa một số nước vừa xem nhau là đối tác, vừa là đối tượng, thậm chí là đối thủ.
Trước tình hình thế giới và khu vực đang có những diễn biến hết sức phức tạp, nhiệm vụ đối ngoại đang gánh trọng trách hết sức nặng nề trong việc đưa Việt Nam hội nhập thành công với thế giới. Do đó, việc học tập, nghiên cứu thấu đáo, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó có tư tưởng ngoại giao là vấn đề rất quan trọng. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII (1991) khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng” là quyết định đúng đắn, trở thành động lực để chúng ta nghiên cứu sâu sắc, đầy đủ tư tưởng ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng, trong văn kiện đã khẳng định việc học tập, nghiên cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là hết sức quan trọng, cấp thiết trong việc xây dựng, thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng XHCN và bảo vệ tổ quốc. Trên cơ sở đó, Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII (2016) trong văn kiện khẳng định quyết tâm: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” . Có thể khẳng định, việc nghiên cứu sâu sắc, toàn diện tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, từ đó góp phần tham mưu, định hướng chiến lược, sách lược ngoại giao của Việt Nam cho phù hợp với tình hình mới là vô cùng cần thiết trong tình hình hiện nay.
Thứ nhất, để hoạt động ngoại giao phát huy hiệu quả tốt, việc phát huy nội lực, tinh thần và sức mạnh của dân tộc trở thành yếu tố quan trọng quyết định. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” và muốn người giúp ta, trước hết mình phải tự giúp lấy mình. Điều đó khẳng định, thực lực chính là cơ sở quyết định sự thành công, bền vững trong hợp tác, đoàn kết quốc tế, do đó cần phải xây dựng sức mạnh nội lực lớn mạnh trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học – công nghệ, để tạo bệ phóng giúp mặt trận ngoại có thêm sức mạnh và động lực để thực hiện tốt mục tiêu và nhiệm vụ. Do vậy, Việt Nam phải quyết tâm xây dựng được những chủ trương, chính sách đúng đắn, phát triển mạnh kinh tế gắn với đảm bảo an sinh xã hội. Đẩy mạnh mở cửa, hội nhập quốc tế hợp lý tránh rơi vào tình trạng bị cô lập hoặc bị hòa tan. Kiên quyết chống tham nhũng, có chính sách hợp lý để bảo vệ môi trường đặc biệt là môi trường biển, xây dựng vững chắc lòng tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền, phát huy tinh thần, trí tuệ của nhân dân, quyết tâm xây dựng đất nước giàu mạnh và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Mặt khác, cần tạo cơ chế hiệu quả, phối hợp nhịp nhàng giữa ngoại giao với chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và văn hóa. Thực hiện được điều đó, Việt Nam sẽ có tâm thế vững chắc khi tiến hành hội nhập sâu rộng với thế giới, “hòa nhập nhưng không hòa tan”, giúp đất nước tiếp tục phát triển và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.
Thứ hai, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trên cơ sở nghiên cứu nắm vững quy luật, đặc điểm của thời đại, có những dự đoán khoa học để hoạch định chiến lược ngoại giao đúng đắn và nắm chắc thời cơ. Lênin đã khẳng định: “Chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước nọ” . Chủ tịch Hồ Chí Minh là người hiểu biết sâu sắc đặc điểm của thời đại, dã tâm của chủ nghĩa đế quốc, các quy luật trong quan hệ quốc tế, giúp Người có cách nhìn toàn diện, thấu đáo về các mối quan hệ quốc tế, từ đó hoạch định đường lối đối ngoại phù hợp, nắm chắc thời cơ để đem đến những thắng lợi cho dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hiện nay, để góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thiết nghĩ cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh gắn chặt với nghiên cứu, phân tích tình hình thế giới thấu đáo để có những dự báo kịp thời. Qua đó, tham mưu hiệu quả cho việc xây dựng đường lối đối ngoại, sách lược ngoại giao phù hợp, góp phần tạo bước đột phá, đẩy mạnh hội nhập quốc tế kết hợp chặt chẽ với giữ vững quốc phòng, an ninh, cảnh giác với những âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trong tình hình hiện nay.
Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” , Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII đã quán triệt: “Nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, bình thường hóa, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” . Thực hiện tốt điều này, Việt Nam đã đẩy mạnh quan hệ với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế, từng bước xây dựng lòng tin, nâng tầm mối quan hệ đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau và hợp tác thực chất. Bên cạnh đó, Việt Nam cần vận dụng sáng tạo phương pháp “ngoại giao tâm công”, dùng nhân tâm đánh vào lòng người, vừa khơi dậy lòng tự hào của đối phương, vừa sử dụng lý lẽ sắc bén nhưng chuyển tải bằng phương pháp linh hoạt, giản dị, gắn với đạo lý, lẽ phải để tấn công vào lòng người nhằm thức tỉnh lương tri. Thực tế đã chứng minh, các dân tộc trên thế giới dù màu da, văn hóa, lịch sử có khác nhau nhưng đều có những đặc điểm chung là hướng thiện và có chung những giá trị nhân văn cơ bản. Mặt khác, ngoại giao tâm công và ngoại giao văn hóa phải kết hợp hài hòa, bởi ngoại giao là diễn đàn của hoạt động văn hóa vì quyền lợi của dân tộc. Đồng thời, văn hóa cũng là động lực của hoạt động ngoại giao, thực hiện tốt điều này, sẽ giúp Việt Nam giải quyết hiệu quả các vấn đề khó trong quan hệ quốc tế đa dạng, nhiều tầng và phong phú trong tình hình hiện nay. Đặc biệt, Việt Nam phải làm cho nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới thấy mình là dân tộc trọng chính nghĩa, yêu hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS). Phương châm đối ngoại phải thể hiện tinh thần đấu tranh bền bỉ, khôn khéo, tránh khiêu khích, mắc mưu khiêu khích hoặc suy nghĩ cực đoan dựa vào nước này để đối phó với nước khác. Mặt khác, cần tăng cường đối thoại, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) đảm bảo sự công bằng cho các quốc gia có liên quan. Bên cạnh đó, Việt Nam cần xây dựng lòng tin với các đối tác chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Chỉ có lòng tin cậy lẫn nhau và sự cộng tác bình đẳng, thật thà, thì mới đi đến kết quả thân thiện giữa hai nước” . Trên cơ sở đó, Việt Nam tiếp tục thực hiện chiến lược đối ngoại và có các giải pháp thực hiện hiệu quả để quyết tâm trở thành thành viên tích cực có những đóng góp quan trọng cho các tổ chức mà mình tham gia, vì hòa bình, ổn định và phát triển. Trên tinh thần đẩy mạnh, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, Việt Nam thực hiện nguyên tắc chỉ đạo cố gắng kiềm chế, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế để duy trì quan hệ hòa hiếu nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, “sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và sự ủng hộ của nhân dân thế giới”.
Kết luận: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, chủ động xây dựng lực lượng cách mạng để đón bắt thời cơ. Đó là cơ sở để thực hiện hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là “cha đẻ” của nền ngoại giao Việt Nam, nền ngoại giao dựa trên nguyên tắc độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, tự chủ, tự lực tự cường gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế và yêu chuộng hòa bình. Phương pháp, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh là mềm dẽo, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “ngoại giao tâm công”, giản dị, dễ thuyết phục, dự báo đúng thời cơ và nhân nhượng có nguyên tắc. Nói về mục đích, nguyên tắc và sách lược ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải giữ vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt” . Lịch sử đấu tranh giành độc lập, bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh đã khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Ngoại giao Việt Nam đã giúp nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới hiểu được tinh thần yêu chuộng hòa bình, sự chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, giúp chúng ta tập hợp lực lượng, gắn kết sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh to lớn làm nên những thắng lợi vĩ đại. Trong tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp hiện nay, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, đặc biệt là “ngoại giao tâm công” để góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là vô cùng quan trọng. Thiết nghĩ, cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, biến tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh trở thành nét văn hóa tiêu biểu gắn liền với phong cách đặc trưng của con người Việt Nam. Trên cơ sở đó, giúp Việt Nam xây dựng nền ngoại giao nhân dân ngày càng vững mạnh, góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng, bền vững, xây dựng lòng tin vững chắc trong các mối quan hệ, tạo động lực cho sự vươn lên phát triển về kinh tế, khoa học công nghệ, đem lại cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cho nhân dân và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trong tình hình hiện nay./.
ThS. Đinh Đức Duy - Phó trưởng khoa Xây dựng Đảng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự Thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Sự Thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Tất Giáp, Nguyễn Thị Quế và Mai Hoài Anh (2015), Mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
5. Lênin toàn tập (1980), Tập 26, NXB Sự thật, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Tập 8, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Tập 15, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Dy Niên (2009), Tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.